Tóm tắt
Dưỡng sinh bằng ẩm thực theo quan điểm y học cổ truyền (YHCT) Trung Quốc nhằm duy trì cân bằng dinh dưỡng thông qua chế độ ăn uống. Chế độ ăn dưỡng sinh thì thông qua sự kết hợp của dinh dưỡng và thuốc để đạt được sự cân bằng Âm Dương. Cả “dưỡng sinh bằng ẩm thực” và “chế độ ăn dưỡng sinh” đều nhằm mục đích giữ gìn sức khỏe, ngăn ngừa và loại bỏ bệnh tật và làm chậm quá trình lão hóa. Trong những năm gần đây, cả dưỡng sinh bằng ẩm thực và chế độ ăn dưỡng sinh ngày càng được áp dụng nhiều hơn trong dưỡng sinh dinh dưỡng lâm sàng. Về dưỡng sinh bằng ẩm thực theo quan điểm YHCT Trung Quốc và chế độ ăn dưỡng sinh cùng các nguyên tắc ứng dụng lâm sàng đều được tóm tắt trong bài viết này.
Dưỡng sinh bằng ẩm thực theo quan điểm y học cổ truyền Trung Quốc
Dưỡng sinh bằng ẩm thực theo quan điểm y học cổ truyền Trung Quốc giúp duy trì cân bằng dinh dưỡng thông qua chế độ ăn uống. Chế độ ăn dưỡng sinh là để đạt được sự cân bằng Âm Dương thông qua sự kết hợp của dinh dưỡng và thuốc. Hai chế độ ăn này có nhiều điểm tương đồng lẫn khác biệt. Trên nền tảng của dưỡng sinh bằng ẩm thực truyền thống, chế độ ăn dưỡng sinh phối hợp với thuốc và áp dụng các phương pháp dưỡng sinh truyền thống cùng phương pháp chế biến hiện đại để tạo ra thực phẩm không chỉ có màu sắc, hương thơm, mùi vị và cách trình bày tuyệt vời mà còn giúp bảo dưỡng sức khỏe, phòng chống và chữa bệnh cũng như tăng tuổi thọ. Gọi là điều trị thông qua ăn uống, tức là thuốc có thể được sử dụng như thức ăn và thức ăn có thể kết hợp với thuốc. Theo cách này, các chức năng của thuốc nhờ thức ăn và thức ăn củng cố tác dụng của thuốc. Ở mức độ này, thuốc và thực phẩm bổ sung và phát huy những gì tốt nhất của nhau thông qua sự kết hợp. “Ẩm thực dưỡng sinh” hoặc “Chế độ ăn dưỡng sinh” nhằm mục đích giữ gìn sức khỏe, phòng và chữa bệnh, và làm chậm quá trình lão hóa.
Rất lâu trước đây, rất nhiều sách chuyên khảo đã xuất hiện trong các kiệt tác của Y học cổ truyền Trung Quốc như: Hoàng Đế Nội Kinh, Thần Nông Cương Mục, Những Bài Thuốc Bổ Đông Y Chọn Lọc, Nguyên Tắc Của Chế Độ Ăn Uống Đúng, đều thảo luận về cách chế độ ăn uống đóng vai trò như thế nào đối với sinh lý, bệnh lý và duy trì sức khỏe và điều trị bệnh. Ví dụ, trong “Những câu hỏi thường gặp về súp và các món hầm”, người ta ghi lại rằng các loại ngũ cốc được hầm thành súp, để bổ sung dưỡng chất cho năm cơ quan nội tạng (tim, gan, lá lách, phổi và thận) trong thời cổ đại. Sau khi đun sôi một thời gian, ngũ cốc được lên men và biến thành dạng nhuyễn, có thể được sử dụng để dưỡng và điều trị cho ngũ tạng.
Với sự phát triển nhanh chóng của mức sống và nhịp độ làm việc của con người, ngày càng có nhiều sự chú ý và công nhận đối với tác dụng điều trị bổ trợ của ẩm thực dưỡng sinh và chế độ ăn dưỡng sinh, đó là, duy trì sức khỏe và tránh bệnh tật. Trong những năm gần đây, ẩm thực dưỡng sinh và chế độ ăn dưỡng sinh ngày càng được áp dụng nhiều hơn trong liệu pháp dinh dưỡng lâm sàng. Các nguyên tắc ứng dụng lâm sàng trong ẩm thực dưỡng sinh và chế độ ăn dưỡng sinh theo kiểu cổ truyền Trung của được tóm tắt như sau.
Ẩm thực dưỡng sinh – “Để chữa khỏi hoàn toàn bệnh tật, hãy ăn ngũ cốc, thịt, trái cây và rau quả”
Được viết cách đây hơn 2000 năm, cuốn sách “Những câu hỏi thường gặp: về Quy luật và Thời khí của các Cơ quan” đã chỉ ra rằng ngũ cốc để nuôi dưỡng, trái cây để hỗ trợ, gia súc có lợi, rau để bổ sung, hãy sử dụng chúng theo tỷ lệ thích hợp để cung cấp năng lượng. Điểm mấu chốt là giữ một chế độ ăn uống cân bằng. Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng khi bệnh của một người đã được kiểm soát, có thể khỏi dần bằng cách ăn ngũ cốc, thịt, trái cây và rau quả. Không cần phải uống quá nhiều thuốc có thể gây ra những tác dụng phụ ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta. Trong cuốn “Các loại ngũ cốc để nuôi dưỡng” đề cập đến việc sử dụng kê, cao lương, lúa mì, gạo và các loại ngũ cốc và đậu khác làm lương thực chính để duy trì cuộc sống. “Trái cây để hỗ trợ” có nghĩa là lê, mơ, hạt dẻ, đào và các loại trái cây và hạt khác là thực phẩm hỗ trợ cần thiết cho chế độ ăn uống cân bằng. “Gia súc có lợi” nhấn mạnh rằng gia súc, chó, cừu, lợn, gà và các gia súc khác có lợi cho cơ thể con người cùng với việc bù đắp sự thiếu hụt dinh dưỡng mà ngũ cốc không thể cung cấp. Chúng đóng vai trò là thức ăn bổ sung chính trong công thức chế độ ăn uống cân bằng. “Các loại rau cần bổ sung” chỉ ra rằng các loại rau như cải, tỏi tây, hành lá, hẹ tây, v.v. có thể bổ sung các chất dinh dưỡng thiết yếu khác nhau.
Nói cách khác, ngũ cốc, thịt, rau và trái cây nên được sử dụng theo tỷ lệ thích hợp để duy trì chức năng bình thường của cơ thể con người. Hơn nữa, việc tuân theo chế độ ăn kiêng là rất cần thiết và không nên nhịn đói hoặc ăn quá no. Đói sẽ làm thiếu hụt năng lượng, máu, và suy giảm khả năng miễn dịch, dẫn đến các bệnh như suy dinh dưỡng, thiếu máu. Theo cuốn “Những câu hỏi thường gặp: Khi bị đau khớp”, ruột và dạ dày sẽ bị suy yếu do ăn quá nhiều, cùng với các triệu chứng như đầy bụng và chướng bụng, chán ăn, quá nhiều axit dạ dày, nôn mửa và tiêu chảy. Vì vậy, YHCT Trung Quốc nhấn mạnh rằng mọi người cần phải giữ thói quen ăn uống điều độ và sắp xếp chế độ ăn uống cân bằng theo độ tuổi, giới tính và thể trạng. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với chế độ ăn cân bằng do các chuyên gia dinh dưỡng học hiện đại đề xuất.
YHCT cho rằng thực phẩm có nhiều tính chất khác nhau, bao gồm ấm, nóng, lạnh, mát. Trong số đó, ấm và nóng có cùng tính chất, còn lạnh và mát có cùng tính chất. Thức ăn nóng và ấm có thể làm ấm tỳ vị và dạ dày để xua tan tính lạnh, tăng cường sinh lực cho tỳ vị và bồi bổ dạ dày, bổ thận tráng dương, thích hợp cho những người thiếu dương, tăng động, chứng âm hư, có triệu chứng xuất hiện như chân tay và thắt lưng lạnh, ớn lạnh, phân loãng và tiểu đêm thường xuyên. Thức ăn tính ấm chủ yếu bao gồm gạo nếp, yến mạch, chà là đỏ, long nhãn, hạt thông, tỏi, hẹ, hành, cà phê, trà đen và thịt gà, v.v. Thức ăn tính nóng về cơ bản bao gồm tiêu, quế, thịt cừu, thịt nai, v.v. Cả thức ăn tính lạnh và mát có tác dụng bổ dương, chẳng hạn như thanh nhiệt, giải độc và nhuận tràng, làm hết khô ẩm, có lợi cho những người thiếu âm, dương hư, nóng trong, kèm theo các triệu chứng như miệng lưỡi đau nhức nhiều lần, miệng và lưỡi khô, khó thở kèm theo cảm giác nóng sốt ở ngực, lòng bàn tay và lòng bàn chân, phân khô, v.v. Thức ăn tính mát chủ yếu gồm kê, đậu xanh, lê, xoài, mướp, hoa hòe, cà chua, cà tím, đậu phụ, củ sen, sáp bầu, cải cúc, sữa, thịt thỏ,… Đồ ăn tính lạnh gồm dưa hấu, mướp đắng, tảo bẹ, mồng tơi, rau muống, kim ngân, lô hội,… Ngoài ra, có một số đồ ăn nhẹ, không lạnh cũng không nóng, có thể ăn quanh năm, chẳng hạn như gạo, ngô, vừng, đậu tương, đậu đũa, đậu Hà Lan, táo, dứa, nho, đậu phộng, củ cải, khoai mỡ, nấm, thịt lợn,v.v.
Thức ăn không chỉ bao gồm 4 tính ấm, nóng, lạnh, mát mà còn mang đủ ngũ vị: cay, ngọt, chua, đắng, mặn. Theo cuốn sách “Những câu hỏi thường gặp: Về Ngũ vị”, nói về sự phân bố của ngũ vị, đồ chua được cho là hấp thụ vào gan, cay vào phổi, đắng vào tim, mặn vào thận, ngọt vào tỳ. Có nghĩa là, mỗi hương vị đóng một vai trò khác nhau trong các cơ quan khác nhau tương ứng. Chế độ ăn uống bị rối loạn hoặc lạm dùng một loại thức ăn nào đó sẽ gây hại cho lục phủ ngũ tạng. Trong cuốn “Những câu hỏi đơn giản: Về Sức sống và Bản chất”, có đề cập rằng một mặt, Âm bắt nguồn từ ngũ vị, tuy nhiên, mặt khác, các cơ quan nơi lưu trữ Âm cũng có thể bị suy giảm do lạm dụng ngũ vị. Nếu chua quá thì gan khí tăng, tỳ khí giảm. Nếu quá mặn có thể dẫn đến tổn thương xương, liệt cơ, tâm khí suy nhược; nếu ngọt quá thì tâm khí bốc lên gây hen suyễn, da sạm đen, thận khí mất cân bằng; nếu đắng quá có thể làm khô tỳ-khí, chướng bụng; nếu quá cay, gân và mạch sẽ bị nhão và sức sống sẽ bị suy giảm. Nghĩa là tình trạng sinh lý và cơ chế bệnh lý của ngũ tạng không thể tách rời ngũ vị của thức ăn. Vì vậy, Tôn Tư Mạc thời nhà Đường đã viết một bài viết rất độc đáo trong “Toa thuốc vô giá để sẵn sàng tham khảo”. Ông chỉ ra rằng, là một bác sĩ, điều đầu tiên là phải biết rõ nguồn gốc của bệnh, triệu chứng là gì và điều trị ẩm thực dưỡng sinh. Nếu chế độ ăn dưỡng sinh không thành công thì mới kê đơn thuốc. Khái niệm này chỉ ra rằng ẩm thực dưỡng sinh nên được sử dụng trước khi điều trị bằng thuốc, điều này củng cố cho quan điểm “chế độ ăn dưỡng sinh nên được dùng để nâng cao sức khỏe”.
Chế độ ăn dưỡng sinh – Điều hòa Âm – Dương để cân bằng
YHCT Trung Quốc tin rằng tình trạng sức khỏe biểu thị sự cân bằng Âm – Dương, trong khi tình trạng bệnh lý có nghĩa là sự mất cân bằng Âm – Dương. Như được đề cập trong cuốn “Những câu hỏi thường gặp: Về sự điều hòa của kinh nguyệt”, nếu Âm và Dương cân bằng, nó sẽ được thể hiện trong thể chất của một người; nếu các cơ quan hoạt động như một, người đó sẽ được coi là khỏe mạnh. Ngược lại, “Âm quá thì sinh ra Dương bệnh, Dương quá thì sinh ra Âm bệnh. Theo “Câu hỏi thuần túy: Về Quy định Âm – Dương”, Dương chiếm ưu thế sinh ra chứng nóng, ngược lại, Âm chiếm ưu thế sinh ra chứng lạnh. Do đó, “cơ sở của việc điều trị cần phải tìm ra tình trạng của Âm-Dương. Sau đó, điều chỉnh lại về cân bằng”. chế độ ăn dưỡng sinh YHCT Trung Quốc được hình thành chính xác dưới sự hướng dẫn của thuyết chữa lành toàn diện, mà cốt lõi là sự cân bằng Âm – Dương. Bằng cách bù đắp sự thiếu hụt của một bên và kiểm soát sự dư thừa của bên kia, chế độ ăn dưỡng sinh của Trung Quốc cổ truyền giúp đưa Âm – Dương trở lại trạng thái tương đối cân bằng.
Cái gọi là “kiểm soát sự thái quá” chủ yếu nhắm vào các cơ quan hoặc triệu chứng có quá nhiều Âm. Đối với hội chứng nhiệt do dương nhiệt quá mức, chế độ ăn dưỡng sinh gợi ý rằng “trục xuất nhiệt bằng các vị thuốc lạnh”. Ví dụ, chọn thân rễ sậy, lá sen, đậu xanh và các vị thuốc có tính lạnh khác để nấu cháo hoặc súp để thanh nhiệt (Dương). Đối với hội chứng cảm lạnh do âm quá lạnh, chế độ ăn dưỡng sinh đề xuất “điều trị cảm lạnh bằng các loại thảo mộc nóng”. Ví dụ, thêm quế, gừng khô, thì là vào cháo hoặc súp để xua tan cảm lạnh (Âm). Tuy nhiên, lối ăn uống này chủ yếu được áp dụng cho các thể trạng hoặc các triệu chứng có thiếu hụt Âm hoặc Dương. Khi đối phó với hội chứng thừa nhiệt do thiếu hụt Âm, liệu pháp dưỡng sinh bằng ẩm thực khuyến nghị “sử dụng các loại thảo mộc có tính lạnh để kiềm chế Dương”. Ví dụ, thêm măng tây, xạ can, hoa hòe, bách hợp, … vào nấu ăn để bổ dưỡng Âm và ức chế Dương. Khi đối phó với hội chứng lạnh do thiếu Dương, liệu pháp dưỡng sinh bằng ẩm thực khuyên nên “tăng cường nguồn nhiệt để loại bỏ Âm”. Ví dụ, bổ dưỡng Dương để kiềm chế Âm. Cũng như theo cách này, chế độ ăn dưỡng sinh nên áp dụng theo các điều kiện của Âm – Dương và chế độ ăn uống cần được sắp xếp hợp lý để duy trì sự cân bằng giữa Âm và Dương.
> Tìm hiểu thêm về thực trạng Ayurveda và Yoga tại Việt Nam:
Ayurveda & Yoga – Những hạn chế trong tiếp cận tại Việt Nam – Book Hunter
Khái niệm Thực phẩm và Dinh dưỡng theo Ayurveda – Book Hunter
>>> Có thể bạn sẽ quan tâm đến khóa Coaching 1-1 về dinh dưỡng và Ayurveda.
Điều trị với ba loại yếu tố căn nguyên
Bản chất của ba loại yếu tố căn nguyên đề cập đến việc điều trị theo định hướng cá nhân, định hướng khí hậu và định hướng địa phương. Có nghĩa là để đạt được hiệu quả điều trị như mong đợi, những gì ăn vào phải được điều chỉnh phù hợp với nhu cầu của thể trạng, độ tuổi, giới tính, khu vực và các tình huống khác tương ứng.
Định hướng về khí hậu
Cũng giống như bốn mùa được phân loại là lạnh, nóng, ấm và mát, tính chất của thực phẩm và thuốc cũng khác nhau, bao gồm cả tính sảng khoái, nhẹ, hăng và đặc dính. Theo đó, ẩm thực dưỡng sinh hoặc chế độ ăn dưỡng sinh nên được điều chỉnh theo các mùa khác nhau để phù hợp với quy luật tự nhiên của sự thay đổi khí hậu. Hoạt động của con người cần tuân theo quy luật sau: “gieo vào xuân; mọc vào mùa hè; thu hoạch vào mùa thu; cất vào mùa đông”. Theo khuyến cáo trong cuốn “Nguyên tắc của chế độ đúng cách”, được viết bởi ngự y Hu Sihui thời nhà Nguyên, “mùa xuân ấm áp, thích hợp ăn lúa mì để giải nhiệt; mùa hè nóng nực, thích hợp ăn đậu xanh để giải nhiệt; mùa thu khô, thích hợp ăn vừng để dưỡng khô; mùa đông lạnh giá, thích hợp ăn kê đậu để xua tan giá lạnh.”
Mùa xuân là thời điểm thích hợp để dưỡng khí sinh trưởng và phát triển. Vì vậy, tốt hơn hết bạn nên ăn những loại có thể làm dịu gan để giữ cho gan và các cơ quan khác hoạt động bình thường. Ví dụ, lá hẹ có vị cay nồng nhưng tính ấm. Vị cay nồng của nó giúp phân tán khí gan và tính ấm của nó có tác dụng làm ấm dương và bổ tỳ vị yếu. Điều này cũng phù hợp với lý thuyết “Nuôi dưỡng Dương trong mùa xuân và mùa hè”. Trong khi đó, mọi người nên cắt giảm ăn chua và tăng cường ăn ngọt. Tốt hơn bạn nên bổ tỳ bằng thức ăn ngọt, như khoai mỡ, cà gai leo, khoai lang, v.v.
Vào mùa hè, khí hậu nóng, vì vậy nên điều trị chứng nhiệt kèm theo lạnh, dùng thực phẩm có tác dụng thanh nhiệt, dưỡng âm, thúc đẩy quá trình sản sinh dịch cơ thể như dưa hấu, củ sen tươi, đậu xanh và dưa chuột… tăng thức ăn cay nồng để bồi bổ phổi. Mùa hè kéo dài từ giữa mùa hè tới mùa thu, vừa nóng vừa ẩm. Độ ẩm trong không khí đạt cực đại trong thời kỳ này. Vì vậy, tốt hơn hết bạn nên chọn các thành phần có thể tăng cường sinh lực cho tỳ và loại bỏ đàm ẩm, ví dụ như dừa Poria, hạt ý dĩ, bầu sáp, hạt sen, v.v.
Khi mùa thu đến, mọi thứ bắt đầu hội tụ khi khí hậu chuyển sang mát mẻ và khô ráo. Đã đến lúc cần bồi bổ phổi bằng các thực phẩm làm ẩm như lê, hoa hòe, quất… Vào mùa thu, mọi người nên ăn ít đồ cay nhưng ăn nhiều đồ chua hơn để thải khí ở phổi và có lợi cho gan. Vì vậy, trong mùa thu, gừng, tỏi, hành lá có vị cay nồng nên giảm bớt, đồng thời khuyến khích thực phẩm chua như mận đen, táo gai, nho.
Vào mùa đông, không khí chủ yếu mang hơi lạnh. Vì vậy, đã đến lúc “đuổi lạnh bằng nhiệt”, thích hợp để ăn thức ăn nóng và ấm như thịt cừu, thịt gà, v.v.
Định hướng theo địa phương
“Định hướng theo địa phương” đề cập đến việc sử dụng các liệu pháp ẩm thực khác nhau hoặc chế độ ăn dưỡng sinh theo các vùng khác nhau. Khí hậu, môi trường tự nhiên và thói quen sinh hoạt của các vùng khác nhau có ảnh hưởng khác nhau đến hoạt động sinh lý và biến đổi bệnh lý của cơ thể con người. Ở vùng cao nguyên, nơi thường xuyên bị lạnh và khô, tốt hơn nên ăn thức ăn có vị cay và bổ dưỡng hoặc thảo dược thô. Ví dụ như gừng tươi, hành hoa, tía tô, sắn dây, thịt cừu, v.v …. Tuy nhiên, ở những nơi nóng và mưa, ẩm thấp, nơi có độ ẩm và nhiệt cao, tốt hơn hết bạn nên chọn thực phẩm thanh nhiệt và đuổi ẩm hoặc thảo dược thô. Ví dụ, hạt ý dĩ, quả bạch đậu khấu, cây kỷ tử, cây bạc hà, cây sa nhân, v.v.
Định hướng cá nhân
Điều trị phù hợp với định hướng cá nhân của bệnh nhân có nghĩa là chăm sóc cơ thể của họ bằng cách lựa chọn thực phẩm hoặc thuốc dựa trên thể trạng, tuổi tác, giới tính và lối sống của cá nhân. Ví dụ, về thể chất, người thiếu dương cần phục hồi sức khỏe bằng thức ăn ấm, chẳng hạn như cháo thịt cừu. Người thiếu âm cần phục hồi sinh lực bằng thức ăn bổ dưỡng, chẳng hạn như súp nấm tuyết nhĩ, cháo củ mạch môn. Những người thiếu khí nên được bổ khí. Cần phải thử cháo nhân sâm, súp hoàng kỳ. Những người thiếu máu cần được bổ máu. Uống súp nấu từ bạch chỉ Trung Quốc và thịt cừu sẽ là một lựa chọn tốt. Còn đối với những bệnh nhân có đờm, những người đang cần làm tan đờm, họ nên thử món cháo làm từ nhựa thông và khoai mỡ Trung Quốc.
Xét về tuổi tác, trẻ em hoạt bát, “Dương thường thừa, Âm thiếu”. Bệnh hầu hết là do nhiệt quá cao. Trong trường hợp này, ẩm thực dưỡng sinh hoặc chế độ ăn dưỡng sinh nên tập trung vào việc thanh nhiệt và giảm hỏa. Càng về già, các chức năng tạng phủ suy yếu dần, khiến khí và huyết bị suy giảm. Bị ốm hầu hết do thiếu hụt các chất dinh dưỡng cần thiết. Giải pháp thích hợp là bồi bổ khí huyết.
Một ví dụ khác, nam giới và nữ giới khác nhau về mặt sinh lý và bệnh lý do giới tính khác nhau. Phụ nữ phải đối mặt với kinh nguyệt, rong huyết, mang thai và sinh con, những điều này cần được cân nhắc khi áp dụng ẩn thực dưỡng sinh hoặc chế độ ăn dưỡng sinh. Ví dụ, trong thời kỳ kinh nguyệt và thời kỳ mang thai, chế độ ăn dưỡng sinh thường tập trung vào việc bổ Âm và khí huyết có thể dùng Trứng, Đông A A Giao. Trong khi đó, tránh thức ăn hoặc thuốc quá nóng, quá lạnh, hoạt huyết hoặc tính tả.
Kết luận
Tóm lại, ẩm thực dưỡng sinh và chế độ ăn dưỡng sinh là những phương pháp tiếp cận hiệu quả để điều dưỡng cơ thể con người, dựa trên các đặc tính như bốn đặc tính (lạnh, mát, nóng, ấm), ngũ vị của thực phẩm và thuốc, nhắm vào các thể trạng hoặc bệnh tật khác nhau. Hai liệu pháp này thể hiện tư tưởng phòng bệnh của YHCT Trung Quốc. Cấu trúc chế độ ăn “Nuôi dưỡng bằng ngũ cốc” và nguyên tắc về “chế độ ăn” hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc cân bằng chế độ ăn của dinh dưỡng học hiện đại. Những gì đã thảo luận ở trên chỉ là nguyên tắc cơ bản của ảm thực dưỡng sinh và chế độ ăn dưỡng sinh. Các ứng dụng cụ thể cần dựa trên các trường hợp cụ thể. Ví dụ, những bệnh nhân mắc hội chứng kém hấp thu đường ruột hầu hết là do tỳ vị bị thiếu hụt và ẩm ướt quá mức. Dùng 30g dừa cạn, 30g hạt ý dĩ, 10 hạt sen và khoai mỡ nấu cháo. Ví dụ khác, bệnh nhân bị tăng lipid máu có cấu tạo đờm ẩm. Đun sôi 30g lá sen, 10g trạch tả trong nước. Sau đó cho gạo đã vo tròn vào nước lọc nấu thành cháo để trừ đờm và giảm mỡ.
Người ta tin rằng những ưu điểm và tính năng của ẩm thực dưỡng sinh và chế độ ăn dưỡng sinh sẽ hướng chúng ta vào một chế độ chăm sóc sức khỏe lành mạnh. Với sự phát triển của công nghệ hiện đại, các lý thuyết về ẩm thực dưỡng sinh và chế độ ăn dưỡng sinh sẽ được làm phong phú hơn để tiếp tục cải thiện và phổ biến chúng trong sử dụng.
Nguồn: Science Direct
Dịch: Sophia Ngo