Home Yêu Tình yêu lãng mạn giống như cơn nghiện như thế nào

Tình yêu lãng mạn giống như cơn nghiện như thế nào

Book Hunter

04/03/2023

Cũng có thể khi đối diện, bạn nghiện tình yêu.

Các ý quan trọng trong bài

  • Nhiều cây bút đã bình luận về tính gây nghiện của tình yêu. Khoa học cũng đồng ý.
  • Hệ thống khen thưởng của não phản ứng với cả tình yêu và ma túy tương tự nhau.
  • Một ngày nào đó, chứng “nghiện yêu” có thể điều trị được.

Kể từ khi con người bắt đầu viết, họ viết về tình yêu. Bài thơ tình lâu đời nhất được biết đến có từ thế kỷ 21 TCN. Trong phần lớn thời gian đó, các cây bút dường như cũng có hai (hoặc nhiều) luồng suy nghĩ về nó, tuyên bố rằng tình yêu có thể đau đớn, không thể từ bỏ hoặc thậm chí gây nghiện – đồng thời đề cập đến tình yêu tốt đẹp như thế nào.

Ý tưởng tình yêu như một cơn nghiện là một ý tưởng vừa quen thuộc vừa gây bối rối. Chắc chắn không thể nào tình yêu chung của chúng ta với người bạn đời của mình (một thứ có thể tạo ra hưng phấn tiêu tốn rất nhiều thời gian của chúng ta và là thứ mà chúng ta sợ mất đi) lại có thể so sánh với thói quen dùng ma túy? Nhưng thực sự, nhiều nhà khoa học đã chuyển sự chú ý của họ sang ý tưởng về “cơn nghiện tình yêu” và cách bộ não bạn sử dụng ma túy có thể giống với bộ não bạn khi yêu.

Tình yêu và các loại ma túy khác

Trong một bài nghiên cứu năm 2017 đăng trên tạp chí Philosophy, Psychiatry, & Psychology (Triết học, Tâm thần học & Tâm lý học), một nhóm các nhà thần kinh học đã xem xét ý tưởng cho rằng tình yêu gây nghiện và đưa ý tưởng này lên khoa học để xem xét kỹ lưỡng.

Họ chỉ ra rằng mô hình nghiện chủ đạo dựa trên khái niệm về ma túy khiến não giải phóng một lượng chất hóa học khen thưởng không tự nhiên, chẳng hạn như dopamine, mà chiếm đoạt một cách hiệu quả hệ thống khen thưởng của não. Hiện tượng này không chỉ giới hạn ở ma túy, mặc dù chúng hiệu quả hơn trong quá trình này so với những thứ khác. Chuột có thể bị nghiện đường tương tự như nghiện cocaine, và chúng có thể có các triệu chứng cai nghiện khủng khiếp khi cơn nghiện đường nổi lên.

Ở cấp độ cấu trúc, có một số lượng tương đối chồng chéo giữa các phần của não xử lý tình yêu và liên kết đôi với các phần xử lý chứng nghiện và xử lý phần thưởng. Khi ở bên trong máy chụp cộng hưởng từ và được yêu cầu nghĩ về người mà họ yêu một cách lãng mạn, các trung tâm phần thưởng trong não của mọi người sẽ sáng lên giống như sân khấu Broadway.

Yêu như một cơn nghiện

Những sự thật này khiến các tác giả xem xét hai ý kiến, được mệnh danh là quan điểm “hẹp” và “rộng” về tình yêu như một chứng nghiện.

Quan điểm hạn hẹp cho rằng nghiện là kết quả của các quá trình não bất thường mà đơn giản là không tồn tại ở những người không nghiện. Theo mô hình này, “các hành vi tìm kiếm thức ăn hoặc tìm kiếm tình yêu không thực sự là kết quả của chứng nghiện, bất kể bề ngoài chúng có vẻ giống nghiện như thế nào”. Có thể là các quá trình bất thường khiến hệ thống phần thưởng của não hoạt động sai khi tiếp xúc với tình yêu và phản ứng với nó một cách thái quá.

Nếu mô hình này là chính xác, chứng nghiện yêu sẽ là một điều hiếm gặp — một nghiên cứu cho rằng nó chiếm khoảng 5 đến 10% dân số — nhưng có thể được coi là một chứng rối loạn tương tự như những chứng rối loạn khác và do hệ thống các mạch điện trong não bị lỗi gây ra. Cũng như các chứng nghiện khác, sự trục trặc của hệ thống phần thưởng này có thể dẫn đến việc không thể sống trọn vẹn một cuộc sống bình thường, khó có các mối quan hệ lành mạnh, và một số hậu quả tiêu cực khác.

Quan điểm rộng nhìn nghiện theo cách khác, thậm chí có thể khác triệt để.

Nó bắt đầu với ý tưởng rằng chứng nghiện tồn tại trên một quang phổ của nhiều động cơ. Tất cả cảm giác thèm ăn của chúng ta, bao gồm cả thức ăn và nước uống, đều tồn tại trên quang phổ này và kích hoạt các phần tương tự của não bộ khi được thỏa mãn. Chúng ta có thể thèm muốn bất cứ thứ gì liên quan đến hệ thống phần thưởng của mình, bao gồm thức ăn, cờ bạc, tình dục, ma túy và tình yêu. Đối với hầu hết mọi người, trong đa phần thời gian, sự thèm ăn của chúng ta khá có chừng mực, nếu có tái diễn. Tôi có thể hơi “nghiện” thức ăn – tôi cần ăn vài lần mỗi ngày – nhưng sự “nghiện” đó không có bất kỳ tác động tiêu cực nào đến sức khỏe của tôi.

Tuy nhiên, sự thèm cocaine hiếm khi có chừng mực và thường gây nguy hiểm. Tương tự như vậy, sự khao khát tình yêu của một người có thể đạt đến mức nghiện ngập và một người có thể bị coi là “bị cuốn hút” vào các mối quan hệ (hoặc vào một người cụ thể). Điều này sẽ đặt chứng nghiện tình yêu vào điểm cực cuối của quang phổ.

Điều này không có nghĩa là các tác giả nghĩ rằng tình yêu có hại cho bạn chỉ vì nó có thể giống như một cơn nghiện. Chứng nghiện tình yêu không giống như chứng nghiện cocaine ở cấp độ thần kinh: bởi có tồn tại những khác biệt quan trọng, chẳng hạn như mất bao lâu cho khao khát có một “cú đánh” khác xảy ra. Thay vào đó, các tác giả coi đây là cơ hội để xem xét lại cách tiếp cận của chúng ta đối với chứng nghiện nói chung và suy nghĩ về cách chúng ta có thể giúp đỡ những người đau lòng khi họ dường như không thể vượt qua mối quan hệ cuối cùng của mình.

“Nghiện tình yêu” có phải là một chứng rối loạn có thể điều trị được không?

Theo giả thuyết, cơ sở thần kinh của chứng nghiện tình yêu có thể chỉ ra những biện pháp can thiệp “sửa sai” cho nó. Nếu quan điểm hạn hẹp về chứng nghiện là chính xác, thì có lẽ một số người sẽ có thể tìm cách điều trị chứng nghiện tình yêu giống như cách những người ta tìm kiếm sự giúp đỡ để bỏ hút thuốc. Nếu quan điểm rộng rãi về chứng nghiện là đúng, thì việc điều trị chứng nghiện tình yêu sẽ khó xảy ra vì có thể khó xác định chính xác đâu là điểm giới hạn của khả năng chấp nhận trên một quang phổ động cơ.

Dù bằng cách nào, vì tình yêu thường được mọi nền văn hóa đánh giá cao và dường như không hoàn toàn được xếp vào cùng loại với thói quen nghiện cocaine tồi tệ về mặt mong muốn xã hội không thích hợp, nên các tác giả nghi ngờ rằng chúng ta sẽ điều trị bất kỳ ai mắc chứng “nghiện tình yêu” bất cứ lúc nào sớm thôi.

Lê Hải Anh dịch

Scotty Hendricks

Bài gốc: https://bigthink.com/neuropsych/love-addiciton/

*Ảnh minh họa trong phim “Titanic”

Tác động của Allicin có trong Tỏi đối với Hệ protein của các Tế bào Calu-3 bị nhiễm SARS-CoV-2

>> Tìm hiểu thêm về chùm bài nghiên cứu việc sử dụng tỏi để hỗ trợ điều trị COVID-19: tỏi & COVID-19 Archives - Book Hunter Tóm lược Allicin (diallyl thiosulfinate) là hợp chất organosulfur phản ứng thiol chính được sản sinh từ cây tỏi (Allium sativum) khi mô cây bị tổn thương. Allicin thể hiện hoạt tính kháng khuẩn mạnh mẽ, chống lại vi khuẩn và nấm thông qua quá trình S-thioallyl hóa của các thiol protein và thiol trọng lượng phân tử thấp.

Có phải chúng ta đã quên mất cách ăn?

Không cần phải lấy dẫn chứng cụ thể, ai cũng có thể thấy đồ ăn hiện nay trên thị trường Việt Nam đang ngày càng xuống cấp thảm hại. Sự xuống cấp này gây ra thói quen dễ dãi trong các chuẩn mực khác của đời sống, bởi hàng ngày nếu chúng ta đã quen ăn mỳ gói thì khó có thể thấy khó chịu với những thứ tồi tệ khác trong xã hội. Bởi thế, trải nghiệm việc ăn ngon là cách tốt nhất

Tô Lông

11/12/2016

Sàn thương mại điện tử & chiến lược thúc đẩy thị trường sách sai lầm từ trường hợp của TIKI

Trước hết, tôi muốn nói lời cảm ơn với những website thương mại điện tử đã khai mở thị trường và huấn luyện những độc giả Việt Nam cách mua hàng online từ khi có Internet đến nay. Sự xuất hiện của các website thương mại điện tử thời kỳ đầu như Vinabook, TIKI đã góp phần hạn chế sách lậu, và hơn cả thế, thúc đẩy lực mua sách toàn quốc. Không còn cảnh những người ở vùng cao phải trèo đèo lội suối

Tại sao nhà ở có mật độ dân cư dày đặc hơn có nghĩa là cuộc sống rộng rãi hơn

Làm thế nào mà chủ nghĩa đô thị thị trường là lợi ích đôi bên cùng có lợi cho người dân ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Trong những năm qua, FEE (Quỹ Giáo dục Kinh tế) đã xuất bản và tái xuất bản một số bài báo về khái niệm “chủ nghĩa đô thị thị trường”. Trước khi tôi bắt đầu viết cho FEE, tôi chưa từng nghe về nó, nhưng phản ứng ban đầu của tôi đối với thuật ngữ

Book Hunter

04/01/2023

Tự do và bình đẳng trong tiếp cận tri thức – Vấn đề chủ chốt để cải thiện nền học thuật

Tự do trí tuệ và Tự do học thuật là những yếu tố căn bản trong việc xây dựng một chiến lược nhân tài của quốc gia, nhưng nếu tri thức không được tiếp cận một cách tự do và bình đẳng thì những khái niệm vừa được nêu ra chỉ là những ngôn từ sáo rỗng. Trong cả tự do trí tuệ hay tự do học thuật đều bao hàm ba kiểu quyền lợi: quyền tiếp cận, quyền lựa chọn và quyền biểu đạt.