Home Đọc Mối liên hệ giữa sự phát triển của Ayurveda và thực hành Yoga tư thế hiện đại

Mối liên hệ giữa sự phát triển của Ayurveda và thực hành Yoga tư thế hiện đại

Tổng quan về mối liên hệ Ayurveda – Yoga

Các truyền thống thúc đẩy sức khỏe thể chất và giải thoát (mokha) thường diễn ra trong bối cảnh đối thoại. Khi được coi là một công cụ để giải thoát, cơ thể con người cần được duy trì ở một tiêu chuẩn sức khỏe nhất định. Về mặt lịch sử, Yoga và Ayurveda là những truyền thống tri thức riêng biệt và đều có những kỹ thuật để tăng cường sức khỏe. Hai trường phái này đã trở nên liên kết chặt chẽ hơn với tư cách là ‘các hệ thống chị em’ từ những năm 1970 trở đi. Bài viết này sẽ phác thảo cụ thể Ayurveda và mối quan hệ của nó với các truyền thống Yoga.

Ayurveda là một hệ thống chữa bệnh thống trị ở Ấn Độ thời tiền hiện đại; và vẫn tiếp tục là một hình thức điều trị y tế rất phổ biến ở Ấn Độ và nhiều nước trên thế giới. Nói một cách chính xác, truyền thống Ayurveda có thể được hiểu là một truyền thống y tế đề cập đến một quy điển cụ thể của các văn bản tiếng Phạn, một số trong số đó quan trọng nhất là Carakasaṃhitā (thế kỷ 1 CN) và Suśrutasaṃhitā (thế kỷ 3 CN). Ngoài ra, Aṣṭāṅgahṛdyasaṃhitā của Vāgbhaṭa (thế kỷ thứ 7 CN) đã cố gắng kết hợp Suśrutasaṃhitā và Carakasaṃhitā thành một văn bản mạch lạc duy nhất. Nó được sử dụng rộng rãi trong khoảng thời gian 1400–1850 và tiếp tục là một nguồn tư liệu quan trọng cho những người thực hành đương đại.

Ayurveda ngày nay có thể được hiểu là truyền thống y học sống động có tham chiếu rộng rãi đến các bộ sưu tập văn bản đã đề cập ở trên. Ayurveda có cả khía cạnh phòng ngừa và chỉ định; nó đề cập đến thực hành tổng quát, phẫu thuật, độc học và nhi khoa, đồng thời cung cấp các hướng dẫn để tạo ra tiên dược kéo dài sự sống, chất tăng cường sinh lực và cách điều trị cho những người bị các sinh vật siêu nhiên chiếm hữu. Sự hiểu biết lý thuyết về cơ thể con người do Ayurveda đưa ra rất thú vị và phức tạp, khác biệt đáng kể so với sự hiểu biết dựa trên cơ sở giải phẫu học. Bệnh tật thường được giải thích là do sự mất cân bằng của các yếu tố cấu thành cơ thể: dosha (các dạng kết cấu), dhātu (các mô cơ thể) và mala (các chất dư thừa và chất thải). Hầu hết các bài thuyết trình phổ biến về Ayurveda chủ yếu nói về thuyết ba dosha (tridosha-upadeśaḥ), cụ thể là vata, pitta và kapha.

Các văn bản Ayurveda tiết lộ những thay đổi trong lý thuyết và thực hành theo thời gian, chẳng hạn như sự điều chỉnh của các thành phần để linh hoạt với tình trạng sẵn có của dược liệu tại địa phương; hoặc việc bổ sung các loại bệnh mới. Các báo cáo lịch sử và bằng chứng đương thời cũng chứng minh rằng nhiều phương pháp chữa bệnh “kiểu Ayurveda” kết hợp kiến thức thảo dược địa phương, công thức nấu ăn gia đình, phương pháp chữa bệnh thông qua nghi lễ và phương pháp dùng năng lượng. Những thực hành chữa bệnh này có thể có hoặc không liên quan chặt chẽ đến Ayurveda chính thống và có thể hoặc không thể hiện bản thân chúng như những phương pháp chữa bệnh Ayurveda.

Mối liên hệ tiền hiện đại giữa Yoga và Ayurveda

Một số hồ sơ sớm nhất còn tồn tại về điều trị y tế ở tiểu lục địa có liên quan đến các trung tâm tu viện Phật giáo và Kỳ Na giáo. Các kỹ thuật rèn luyện thể chất và tinh thần của họ gắn liền với các thực hành hiện được xác định là yoga và yogi. Trong môi trường này, chúng ta có thể tìm thấy một số gốc rễ của những gì đã phát triển thành y học Ayurveda cũng như của yoga.

Carakasaṃhitā có trước Yoga Sutra của Patanjali (thế kỷ thứ 4 CN) và có một phần về yoga trong chương về nguồn gốc và cấu trúc của con người. Chương này mô tả yoga vừa là sự giải thoát tâm linh vừa là phương tiện để đạt được giải thoát và bao gồm những mô tả về sức mạnh siêu nhiên có thể đạt được từ việc thực hành thiền định. Theo đánh giá của Dominik Wujastyk, đoạn văn về yoga của Carakasaṃhitā có mối liên hệ gần gũi với triết học Vaiśeṣika hơn là với Sāṅkhya của hệ thống Patanjali (mặc dù nó rút ra từ cả hai hệ thống, cũng như từ Phật giáo). Ngoài ra, Yoga Sutra của Patanjali có đề cập đến một thảo luận ngắn gọn về bệnh tật và thành phần của cơ thể qua việc sử dụng các thuật ngữ dhātu (các mô cơ thể), dosha và vyādhi (bệnh tật) gợi ý rằng tác giả của văn bản này đã quen thuộc với một mô hình kiểu Ayurveda ban đầu về cơ thể người và tri thức về dưỡng sinh.

Dharmaputrikā (Nepal từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 11), một văn bản được xác định gần đây của truyền thống Śaiva, trình bày yoga như một hình thức trị liệu. Về cơ bản, văn bản này là một giáo huấn có hệ thống về yoga nhằm giải thoát (moksha), đạt được thần thông (guṇaiśvarya) và khả năng thay đổi cơ thể (parapurañjaya); và nó bao gồm các mô tả về tám tư thế thể chất (asana). Đáng chú ý là, Dharmaputrikā, nhằm vào các chủ gia đình hơn là các nhà tu khổ hạnh, có một chương tên là yogacikitsā, nghĩa là “liệu pháp trong bối cảnh yoga” mô tả các bệnh do thực hành yoga gây ra, tầm quan trọng của chúng trong việc tiến tới moksha, và cách thức để điều trị những rối loạn này bằng các kỹ thuật yoga khác. Văn bản này cho thấy sự tích hợp nhiều hơn giữa y học và thực hành yoga vào một thời điểm sớm hơn so với trước đây.

Tuy nhiên, trong một bài đánh giá sâu rộng về các tác phẩm haṭha yoga và raja yoga, được sáng tác từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 19, Jason Birch kết luận rằng:

“bằng chứng cho thấy rằng các yogin đã sử dụng kiến thức tổng quát hơn về cách chữa bệnh, được tìm thấy trong các văn bản Tantra và Bà La Môn giáo trước đó, mà không áp dụng theo bất kỳ cách thức quan trọng nào các giáo lý từ Ayurveda cổ điển. Trong một số trường hợp, rõ ràng là các yogin đã phát triển các phương thức chữa bệnh kiểu yoga.”

Bất chấp kết luận chung này, một phần là do các văn bản yoga tập trung rất khác nhau (về việc đạt được mokshasamādhi) và các văn bản của truyền thống Ayurveda tập trung nhiều hơn vào các tương tác giữa y sư và bệnh nhân, cũng có một số văn bản gợi ý nhiều điểm trùng lặp hấp dẫn hơn giữa các truyền thống. Ví dụ, Āyurvedasūtra (thế kỷ 16) và Satkarmasaṅgraha (thế kỷ 18) gợi ý đối thoại mở rộng hơn giữa vaidya (y sư) Ayurveda và Yogi sādhaka. Các văn bản bổ sung cho thấy đối thoại rõ ràng giữa các truyền thống có khả năng được xác định với nghiên cứu sâu hơn. Sự hiểu biết hiện tại của chúng ta về mối quan hệ giữa những gì hiện nay được coi là hai khối văn học riêng biệt có thể sẽ thay đổi.

Tuy nhiên, đối với cá nhân đang tìm cách xoa dịu nỗi đau thể xác, có khả năng luôn có sự trùng lặp giữa các hình thức chữa bệnh của yoga và Ayurveda. Các tạp chí du lịch châu Âu cho rằng các nhà tu khổ hạnh đôi khi có mặt trong triều đình của các quốc gia quý tộc, đưa ra lời khuyên về y tế. Ở Punjab thế kỷ 19, các tổ chức học tập liên kết với các dòng tu khổ hạnh bao gồm những tổ chức liên kết với Dadupanthis, Yogi dòng Nath, Kỳ Na giáo cũng như các dòng UdasiNirmala, được biết là dạy kiến thức y học bản địa trong các tổ chức của họ. Cá nhân sādhu (chẳng hạn như Madhavdasji, đạo sư của cả Yogendra và Swami Kuvalyananda) đã đạt được danh tiếng là có thể chữa lành các vấn đề về tinh thần và thể chất thông qua các kỹ thuật yoga và có vẻ như một loại bệnh đã phát triển tại đạo tràng của Madhavdasji ở Malsar vào cuối thế kỷ 19. Nghiên cứu sâu hơn là cần thiết để xác định mức độ mà các tổ chức khổ hạnh đóng vai trò là kho kiến thức y học ở các khu vực khác của Ấn Độ trong suốt thời kỳ Mughal và thời kỳ thuộc địa.

Thể chế hóa Yoga và Ayurveda

Vào đầu thế kỷ 20, việc sử dụng asana (tư thế), praṇayama (kiểm soát hơi thở) và kriya (thanh lọc) không có trong hầu hết các mô tả về lý thuyết và kỹ thuật của Ayurveda, cũng như bất kỳ tài liệu tham khảo nào về triết học yoga. Tuy nhiên, đến thế kỷ 21, giáo trình của trường đại học Ấn Độ dành cho Cử nhân Y học Ayurveda và Phẫu thuật (BAMS) yêu cầu sinh viên tốt nghiệp chương trình 5 năm phải có hiểu biết cơ bản về yoga của Patanjali cũng như các ứng dụng trị liệu của asanapraṇayama.

Báo cáo Usman, được ủy quyền vào năm 1923 bởi chính phủ Madras, cung cấp một bức ảnh chụp nhanh khác thường về câu trả lời của những người thực hành Ayurveda, Unani và Siddha đối với một loạt câu hỏi về thực hành của họ trên khắp tiểu lục địa. Yoga như một phương pháp điều trị dường như không phải là một yếu tố quan trọng trong việc thực hành đối với những người tự nhận mình là y sư Ayurveda vào thời điểm này.

Tuy nhiên, lời chứng bằng văn bản trong Báo cáo Usman cho thấy rõ ràng rằng những người hành nghề y học Siddha ở Nam Ấn Độ có mối liên hệ chặt chẽ hơn với yoga và yogi; có một số bằng chứng về việc các cá nhân được đào tạo trong cả hệ thống Ayurveda và Siddha. Ý kiến đa số trong Báo cáo Usman là cả hệ thống Siddha và Ayurveda đều có nền tảng chung, nhưng vẫn khác biệt ở trọng tâm và văn bản kinh điển. Tài liệu y khoa Siddha chủ yếu được viết bằng tiếng Tamil trong khi văn bản Ayurveda trong lịch sử được viết bằng tiếng Phạn. Năm 1923, các y sư Siddha không đưa ra bằng chứng rõ ràng về việc điều trị bằng asanapraṇayama, nhưng kiến thức y học của họ rõ ràng có liên quan đến các yogi, , “Người ta chỉ có thể học phương pháp này (y học Siddha) từ các yogi chứ không phải từ những nguồn khác. Chúng tôi cũng chữa bệnh bằng cách sử dụng khoáng sản (maṇi), mantra và thuốc có sẵn trong hệ thống y học Tamil.” Một trong những văn bản quan trọng của y học Siddha, Tirumantiram (Mantra Thiêng) cũng là một tác phẩm tôn giáo thần bí của Śaiva, kết hợp yoga, y học và thuật giả kim trong một ngôn ngữ thơ ca được mã hóa.

Năm 1924, Swami Kuvalayananda thành lập một trung tâm nghiên cứu cung cấp các kỹ thuật yoga để cải thiện sức khỏe nói chung và can thiệp điều trị cho các tình trạng cụ thể. Các sáng kiến của Kuvalayananda đã giúp ích rất nhiều trong việc thể chế hóa các liệu pháp yoga như một phần của hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia Ấn Độ. Ngoài ra, có ảnh hưởng đáng kể trong việc thúc đẩy các kỹ thuật yoga như một liệu pháp sức khỏe vào đầu thế kỷ 20 là Trường đại học Yoga và Văn hóa Thể chất Ghosh ở Calcutta (thành lập năm 1923) và Viện Yoga của Yogendra ở Santa Cruz (nay là ngoại ô Mumbai) cung cấp các liệu pháp yoga chữa bệnh cho phần lớn khách hàng thuộc tầng lớp trung lưu.

Mohandas Karamchand Gandhi (1869-1948), thường được gọi là Mahatma hay “linh hồn vĩ đại” đã ảnh hưởng sâu sắc đến những hiểu biết về yoga và Ayurveda trong thế kỷ 20. Quan niệm chống thực dân của Gandhi về swadeshi (phong trào bài trừ hàng ngoại) bao gồm một phê phán về ý thức hệ đối với y học, bác sĩ và bệnh viện phương Tây, những người mà ông coi là tác nhân của sự áp bức thuộc địa. Gandhi cũng chỉ trích các y sư Ayurveda, những người mà ông cũng coi phần lớn là một hệ thống chữa bệnh bằng thuốc dành cho giới tinh hoa, thành thị. Ngược lại, Gandhi thúc đẩy liệu pháp tự nhiên (chữa bệnh tự nhiên) cũng như các hình thức làm sạch (kriyā) của yoga, các bài tập thở và tăng cường sức mạnh dựa trên asanapraṇayama, bên cạnh các hình thức văn hóa thể chất khác của Ấn Độ. Ông thấy những thứ này dễ tiếp cận hơn đối với người dân nghèo và nông thôn cũng như đặc biệt phù hợp để xây dựng sức mạnh thể chất và tinh thần của một quốc gia Ấn Độ tự trị. Ở Ấn Độ thời kỳ đầu sau độc lập, yoga thường được kết hợp với liệu pháp tự nhiên (chứ không phải Ayurveda) để được Bộ Y tế quảng bá. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, yoga được liên kết cụ thể hơn với Ayurveda, như trong phương pháp điều trị trẻ hóa được công bố rộng rãi của nhà dân tộc học Ấn Độ, Madan Mohan Malaviya, dưới danh nghĩa của một yogi.

Sự tài trợ của nhà nước đối với Ayurveda, yoga và các hình thức y học bản địa và phi y sinh khác đã được giải quyết một cách không đồng đều kể từ khi độc lập, với nhiều biến thể theo vùng.

Từ cuối những năm 1960, sự thống trị toàn cầu của y sinh học dần bị thách thức bởi các phong trào phản văn hóa và nữ quyền ngày càng gia tăng, những phong trào ngày càng xác định những hạn chế và sự mất cân bằng quyền lực. Chính phủ Ấn Độ đã phản ứng bằng cách gia tăng tài trợ và quy định của chính phủ, đồng thời quảng bá cả Ayurveda và yoga như một liệu pháp.

Năm 1970, Ayurveda được chính phủ Ấn Độ chính thức công nhận là một hệ thống y học quốc gia, sau đó chính phủ đã thành lập một hội đồng để điều chỉnh việc thực hành cũng như tạo ra và giám sát các tiêu chuẩn cho giáo dục Ayurveda. Sau nhiều năm không được hỗ trợ nhất quán, yoga đã được chấp nhận như một thành phần của hệ thống y học bản địa ở cấp quốc gia, thuộc Hội đồng Nghiên cứu Yoga và Liệu pháp Tự nhiên Trung ương của chính phủ Ấn Độ vào năm 1978. Hai bộ phận này đã được hợp nhất vào năm 2003 trực thuộc Bộ Y tế với tên gọi Bộ Y tế, Yoga và Ayurveda. Liệu pháp tự nhiên, Unani, Siddha và Vi lượng đồng căn (AYUSH). Với cuộc bầu cử của Đảng Bharatiya Janata chiếm đa số trong quốc hội Ấn Độ vào năm 2014, bộ AYUSH đã được nâng lên thành một bộ độc lập.

Yoga, Ayurveda và các bậc thầy yoga hiện đại nổi tiếng

Trong các truyền thống “yoga hiện đại”, ngày càng được yêu thích trên toàn cầu trong suốt thế kỷ 20, thường có một giả định ngầm (và đôi khi rõ ràng) rằng một cơ thể khỏe mạnh (hoặc ít nhất là một cơ thể và tâm trí tương đối không đau yếu) là điều kiện tiên quyết để tập trung vào việc cải thiện tinh thần. Trong thế giới đương đại, mục tiêu của moksha (giải thoát) dường như không rõ ràng và ít cấp bách hơn so với mục tiêu tăng cường sức khỏe và thịnh vượng.

Một trong những giáo viên yoga Ấn Độ đầu tiên tận dụng mối liên hệ giữa yoga và Ayurveda trên phạm vi toàn cầu là Yogi Maharishi Mahesh (1918–2008). Maharishi đã đạt được sự nổi tiếng chưa từng có sau khi thu hút được ban nhạc nổi tiếng The Beatles, những người hâm mộ cuồng nhiệt trong một thời gian ngắn vào năm 1967-68. Giảng dạy của Maharishi trong những năm 1960 tập trung vào thiền định dựa trên mantra dành cho những người nhập môn trong một nghi lễ “Vệ đà” riêng tư. Được đăng ký nhãn hiệu là “thiền siêu việt”, chúng được trình bày dưới dạng khoa học trong các tài liệu quảng cáo. Từ cuối những năm 1970, Maharishi bắt đầu nghiên cứu Ayurveda và dược phẩm kiểu Ayurveda, đồng thời thành lập các sản phẩm mang nhãn hiệu Ayur-veda vào khoảng năm 1984. Từ thời kỳ này trở đi, các khu nghỉ dưỡng, spa và khu nghỉ dưỡng sang trọng kiểu Ayurveda đã mọc lên như nấm trên nhiều điểm du lịch của Ấn Độ”, nơi cung cấp các liệu pháp “thư giãn” và “trẻ hóa” đắt tiền, các buổi tập yoga và thiền, tư vấn về lối sống cũng như các liệu pháp làm đẹp cho khách hàng giàu có, hầu hết (mặc dù không độc quyền) từ nước ngoài.

Ở thế kỷ 21, một thế hệ các bậc thầy mới đã tích hợp yoga và Ayurveda thậm chí còn chặt chẽ hơn trong trí tưởng tượng đại chúng và trong các doanh nghiệp thương mại thành công. Đạo sư Sri Sri Ravi Shankar (sinh năm 1956), người trước đây đã liên kết với Maharishi, đã mở một dòng sản phẩm kiểu Ayurveda mang nhãn hiệu Sri Sri vào năm 2003. Cùng năm đó, Swami Ramdev đã thu hút sự chú ý của cả nước trên đài truyền hình Aastha của Ấn Độ, nhanh chóng trở thành một trong những người quảng bá có ảnh hưởng nhất đối với yoga và Ayurveda mang nhãn hiệu swadeshi Patanjali Yogpeeth trên khắp Ấn Độ.

Phần kết luận

Cho đến nay, sự đồng thuận của giới học thuật cho rằng các truyền thống Ayurveda và yoga nên được hiểu là những truyền thống đặc biệt về mặt lịch sử đôi khi ảnh hưởng lẫn nhau trên các lĩnh vực cùng quan tâm. Tuy nhiên, hai truyền thống ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau, thống nhất chủ yếu dưới sự thúc đẩy sức khỏe thể chất. Nghiên cứu về sự chồng chéo giữa hai truyền thống này đang phát triển nhanh chóng và liên tục. Các nghiên cứu sâu hơn trong tương lai có thể sẽ dẫn tới một vài sửa đổi đối với đánh giá này.

Lời cảm ơn

Dự án này đã nhận được tài trợ từ chương trình nghiên cứu và đổi mới Horizon 2020 của Liên minh Châu Âu theo thỏa thuận tài trợ số 639363.

Dịch: Sophia Ngo

Nguồn: Rajagopalan, K. (1982). Yoga and ayurveda.. Ancient science of life. 2. I.

Tháng 4 và lưu ý trong dưỡng sinh theo Ayurveda

Khí hậu tháng 4 Tháng 4 tại Việt Nam đặc trưng bởi sự chênh lệch khá rõ ràng về thời tiết giữa các miền do địa hình dài và đa dạng từ Bắc vào Nam. Cụ thể như sau: Miền Bắc Tháng 4 ở miền Bắc Việt Nam thường đánh dấu sự bắt đầu của mùa hè, với những thay đổi đáng kể về thời tiết. Nhiệt độ tháng 4 bắt đầu tăng lên đáng kể so với những tháng trước, với nhiệt độ trung

Chế độ ăn thô theo quan điểm khoa học phương Tây và Ayurveda

Tìm hiểu chung về chế độ ăn thô Chế độ ăn raw hay ăn thô là một chế độ ăn thay thế, quan điểm chung của chế độ ăn này là từ chối thực phẩm nấu chín vì cho rằng chúng bị biến tính do quá trình nấu chín. Theo quan điểm của những người theo chế độ ăn thô thì thực phẩm tươi, sống và chưa qua chế biến mới là thực phẩm tự nhiên cho con người. Hiện nay, chế độ ăn thô

Ayurveda & Yoga – Những hạn chế trong tiếp cận tại Việt Nam

Như chúng ta biết, cho đến nay Yoga đã trở nên khá là phổ biến ở Việt Nam. Khi nhắc đến, hầu như ai cũng sẽ biết về Yoga. Ayurveda cũng mới xuất hiện và cũng chưa có nhiều thông tin được phổ biến ở Việt Nam. Hiện tại, có một vài trung tâm Yoga tổ chức khóa học về Ayurveda, thế nhưng, do nền tảng triết lý của người Việt Nam mình không thông thuộc hệ thống triết lý  Nam Á, cụ thể là

Yoga không phải lúc nào cũng là về Asana và Vóc dáng

Nhắc đến “yoga” thì có lẽ một loạt các tư thế và asana vặn vẹo ngay lập tức xuất hiện trong tâm trí bạn. Nhưng thật thú vị, sự liên kết giữa yoga với “thực hành tư thế”, trên thực tế, là cách giải thích của thế kỷ 20 về một nền văn hóa có niên đại hơn 3000 năm. Thiền hay dhyana, từng là khía cạnh quan trọng nhất của các thực hành yoga, đã phát triển thành một ngành công nghiệp toàn cầu

Nguồn gốc của yoga tư thế (asana yoga) và chuyển biến từ yoga trị liệu sang yoga thể hình

Nguồn gốc của Asana Yoga Khi bắt đầu thực hành các asana yoga, chúng ta thường được định hướng để tin rằng những tư thế mà cơ thể chúng ta đang thực hành là một phần của truyền thống yoga cổ xưa. Nhưng trong cuốn sách Roots of Yoga xuất bản 2016, Mallinson đã lập luận rằng yoga thời tiền hiện đại có thể được xác định thông qua việc kiểm soát hơi thở, trong khi đó, yoga hiện đại ngày nay được xác định