Home Nhớ BIỂU TƯỢNG KỲ LÂN TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN CỦA PHƯƠNG TÂY (P.2)

BIỂU TƯỢNG KỲ LÂN TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN CỦA PHƯƠNG TÂY (P.2)

Bài viết có chứa một số nội dung phù hợp với lứa tuổi 16+.

—-

Dù câu chuyện Trinh Nữ Bắt Kỳ Lân/ Lễ Săn Thiêng phổ biến như một ẩn dụ về Chúa, thì ý nghĩa gốc về tính dục của huyền thoại này không hề mất đi. Phiên bản câu chuyện Trinh Nữ Bắt Kỳ Lân được kể trong bộ sưu tập truyện ngụ ngôn xứ Provence giống một cuộc đi săn trần tục hơn. Con kỳ lân tìm cách gạ gẫm trinh nữ, và bị các thợ săn xử chết. Trong phiên bản này, câu chuyện là ẩn dụ cho dục bị khuất phục trước tình yêu thiêng liêng, hoặc là chính Cái Ác, dưới dạng một con kỳ lân, bị tính thuần khiết khuất phục.

Vào cuối thời trung đại, khi ý niệm về tình yêu thanh nhã được đông đảo giới thượng lưu chấp nhận, con kỳ lân trở thành biểu tượng của mặt tốt trong tình yêu xác thịt. Richard de Fournival, giữa thế kỷ 13, viết một bài thơ dài lãng mạn mô tả những lời tán tỉnh có sử dụng một loạt những phép so sánh với thế giới động vật. Một ví dụ được sử dụng là câu chuyện kỳ lân và thiếu nữ. Con kỳ lân thể hiện dưới dạng một chàng trai trẻ cầu hôn, bị một quý cô cư xử tệ và phản bội, nhưng cũng thể hiện một chàng trai kiêu ngạo, cuối cùng đã bị tình yêu chinh phục. Cho đến thế kỷ 14, kỳ lân đã trở thành một biểu tượng được chấp nhận về người tình phong nhã, người đã vượt qua nhiều gian nan trắc trở trước khi có được – hoặc thuộc về – người trong mộng.

Kỳ lân bị tấn công – Tấm thảm thứ ba trong bộ thảm “Săn Kỳ Lân”

Con kỳ lân giữ vai trò là biểu tượng của Chúa và là biểu tượng của người yêu trong loạt thảm thêu nổi tiếng Thợ Săn Kỳ Lân. Bộ thảm bảy tấm này có thể được dệt ở/hoặc gần Touraine, Pháp, vào cuối thế kỷ 15 hoặc đầu thế kỷ 16. Trừ tấm thảm thứ nhất và thứ bảy, người ta tin rằng các tấm thảm khác đều được dệt để kỷ niệm lễ cưới của Anne xứ Brittany và vua Louis XII của nước Pháp, diễn ra vào năm 1497; tấm đầu tiên và tấm thứ bảy có vẻ không thuộc về bộ tranh gốc, và có thể được dệt mừng lễ cưới của con gái Anne, bảy năm sau đó.

Không có tài liệu thực chứng đối với thời điểm hoặc chủ nhân ban đầu của bộ thảm, nhưng nhiều bằng chứng hỗ trợ cho giả thuyết: Anne xứ Brittany. Ở tấm thảm thứ sáu, lãnh chúa và công nương của lâu đài trông rất giống các chân dung hiện có của Louis và Anne. Công nương đội khăn trùm đầu kiểu Breton và bộ xiêm y giống với mô tả đương thời về Anne. Ở một số nguồn giải thích, người ta nói bà thích áo dài “bằng vải thêu kim tuyến màu vàng lẫn đỏ, và nâu vàng.”

Bộ thảm, lúc này được xem như một kiệt tác của nghệ thuật trung đại, thực sự đã bị thất lạc nhiều thế kỷ. Trong suốt thời kỳ Cách Mạng Pháp, khi mọi tác phẩm nghệ thuật đại diện cho các biểu tượng của hoàng gia đều bị ra lệnh tiêu hủy, nhiều phần của tấm thảm thứ năm bị cắt ra, thật không may, đó là tấm thảm thực sự mô tả cảnh Trinh Nữ Bắt Kỳ Lân. Sau Cách Mạng, bộ thảm được các nông dân sử dụng để che cho rau trong thùng chứa, cho đến tận giữa những năm 1850, khi bộ thảm được Bá tước Hippolyte de la Rochefoucauld phát hiện. Chúng được lưu lại trong gia đình de la Rochefoucauld cho đến năm 1923, khi đó chúng được bán lại cho John D. Rockefeller, Jr. Ông đã hiến bộ thảm cho bảo tàng Cloister vào năm 1935, nơi chúng được trưng bày cho đến ngày nay.

Bộ thảm mô tả Lễ Săn Thiêng rất chi tiết. Tấm thảm đầu tiên cho thấy khởi đầu của buổi săn; tấm thứ hai mô tả khả năng điều khiển nước của kỳ lân; tấm thứ ba cho thấy kỳ lân tìm cách trốn thoát khỏi những người săn đuổi bằng cách nhảy xuống một dòng suối. Ở tấm thứ tư, kỳ lân chiến đấu với các thợ săn, nhưng ở tấm thứ năm, trinh nữ đã chinh phục nó. Sang tấm thứ sáu, con kỳ lân đã bị giết và được đưa về cho lãnh chúa và công nương của lâu đài; ở tấm cuối cùng, con vật dựng dậy và được mô tả là đang bị giam giữ.

Tấm thảm thứ năm đã bị phá hủy đến nỗi những gì còn lại của trinh nữ chỉ là bàn tay, và một phần ống tay áo thêu ren, đặt trên cổ con kỳ lân. Phần ren giống với ren màu vàng, đỏ và nâu-vàng của công nương chủ lâu đài, “Anne xứ Brittany”, đang mặc trong mô tả của tấm thảm thứ sáu. Trong khi thật tai hại nếu suy diễn dựa trên bằng chứng mơ hồ như vậy, thường thì người ta vẫn tin trinh nữ ấy là Anne. Vì bà đã là một góa phụ khi bà lấy Louis, nên suy đoán này dường như hơi vô lý. Một số nhà sử học nghệ thuật đưa ra giả thuyết rằng bộ thảm có thể được làm ra một phần để chính thức hóa đám cưới hoàng gia này. Để cưới được Anne, Louis đã hủy bỏ một cuộc hôn nhân kéo dài hai mươi năm mà không có con nối dõi; Anne là góa phụ mới được chín tháng. Thông qua kết hợp với trinh nữ trong huyền thoại, và, bởi thế, với Đức mẹ Đồng Trinh, Anne đã được tuyên bố là một trinh nữ. Cuộc hôn nhân này đã được thánh hóa.

Tấm thảm thứ năm nhấn mạnh sự kết hợp của trinh nữ với Đức mẹ Đồng Trinh Maria bằng cách sử dụng một số biểu tượng. Cuộc bắt kỳ lân rõ ràng diễn ra trong một khu vườn có hàng rào, hoặc “khu vườn kín”. “Khu vườn kín” là một biểu tượng của Maria, và Sự Hiện Thân, cũng như thể hiện lòng trinh bạch nói chung. Cây táo trong vườn biểu trưng cho Thánh Linh tìm đến với Maria tại Lễ Truyền Tin. Miếng táo ngọt ngào là biểu tượng của niềm vui xác thịt – gợi nhắc đến hai ý nghĩa của kỳ lân.

Trong suốt các tấm thảm, kỳ lân rõ ràng là cách thể hiện đầy ẩn dụ về Chúa. Ở tấm thảm mô tả khả năng điều khiển nước, nó chính là Chúa Cứu Thế, bảo vệ thế giới khỏi cái ác. Ở tấm thứ ba và thứ tư, nó đại diện cho Chúa bị kẻ thù hành hạ. Các thợ săn trong bộ thảm này đều có vẻ xấu xa và độc địa vô cùng; mặt của họ thể hiện mình là tín đồ giáo phái Pharisee và là kẻ thù của Chúa. Cả hai đều có trong tấm thảm thứ tư, họ tấn công kỳ lân, và ở tấm thứ sáu, họ giết con kỳ lân, một số thợ săn rõ ràng vui mừng trước nỗi đau đớn ấy.

Kỳ Lân bị giết hại và đưa về lâu đài – Tấm thảm thứ sáu trong bộ thảm “Săn Kỳ Lân”

Người thợ săn thổi tù và trong tấm thứ tư và sau đó là thông báo về cái chết của kỳ lân ở tấm thứ sáu, lại không như vậy. Vẻ mặt ông ta có vẻ thấu hiểu và thương xót, nếu đúng như vậy, thì ông ta đại diện cho Tổng lãnh thiên thần Gabriel, thiên thần của Lễ Truyền Tin. Bao kiếm của ông ta mang hàng chữ “Ave Regina Coelorum”, tức là “Hoan nghênh, Nữ vương Thiên Đàng” (Đức mẹ Maria). Trong khi những lời này không phải lời của Lễ Truyền Tin, chúng là tiêu đề một bản thánh ca nổi tiếng dành cho Đức Mẹ Đồng Trinh. Người ta hẳn đã hiểu rõ ý định này.

Khi con kỳ lân bị giết và bị đưa về lâu đài, nó được trang trí thêm một vòng hoa thiêng và lá sồi. Lá gai của vòng hoa là một liên tưởng đến vòng gai trên đầu, trong khi lá sồi, loại cây sống lâu nhất, đại diện cho sức bền bỉ của lòng tin vào Chúa. Con kỳ lân vì thế chính là chúa Jesus bị đóng đinh. Trong tấm thảm cuối cùng, con kỳ lân, chính là Chúa, bị dựng dậy. Theo lời của Margaret Freeman, bộ thảm này mô tả “dự định thiêng liêng để chuộc tội cho con người.”

Con người kiêu hãnh bị thuần phục bởi tình yêu của một phụ nữ trong trắng là cảm hứng phù hợp cho bộ thảm được dùng với mục đích làm quà cưới, và vì thế cảm hứng của tình yêu phong nhã không bị bỏ qua trong các tấm thảm. Con kỳ lân hoang dại dữ dội bất chấp các thợ săn, trong khi người đàn ông trẻ thách thức xã hội. Con kỳ lân bị khuất phục trước một thiếu nữ giống như người đàn ông – đối mặt với cả xã hội – bị khuất phục trước tình yêu và hôn nhân. Con kỳ lân đã thuần biểu trưng cho hôn nhân cũng như sự thuần khiết của thiếu nữ, bởi thế, cô dâu – góa phụ Anne sắm vai trinh nữ là chuyện không có gì lạ. Bà là một trinh nữ biểu tượng.

Khi tình lang – kỳ lân bị giết, đại chúng đều giải thích rằng tình lang đã bị chính người yêu phản bội. Tuy nhiên, trong các tấm thảm này, kỳ lân lại bị sát hại mà không liên quan đến trinh nữ; nàng dường như chỉ dự phần không khác gì một kẻ đồng mưu. Vẻ mặt buồn bã của công nương trong lâu đài, có thể chính là thiếu nữ kia, ám chỉ con kỳ lân không phải kẻ duy nhất bị phản bội. Trong bối cảnh này, có thể con kỳ lân bị hại kia đại diện cho một người đàn ông bị cả thế giới cản trở trong tình yêu nói chung.

Ý tưởng này dường như đặc biệt có tính thuyết phục đối với ý nghĩa của tấm thảm thứ bảy. Ở đây, con kỳ lân đã chết được dựng dậy một cách kỳ lạ. Dù các vết thương của nó không hoàn toàn lành lặn, nhưng chúng không biến dạng, chúng gần như tôn lên vẻ đẹp của bộ lông màu trắng sữa. Nó là một tình lang bị bắt giữ và say đắm trước người yêu của mình, và được hồi sinh – bởi xã hội – bởi tình yêu trong sáng. Đai cổ và sợi xích bằng vàng nó mang thể hiện những liên kết về hôn nhân; nó bị xích vào một thân cây lựu, đại diện cho sự thụ thai và hoàn mỹ của hôn nhân. Dù có các ràng buộc đó, con kỳ lân vẫn mang vẻ sung sướng.

Kỳ Lân bị bắt giữ và trở nên Bất Tử – Tấm thảm thứ bảy trong bộ thảm “Săn Kỳ Lân”

Vẻ sung sướng đó phù hợp với một người mới kết hôn, nhưng, nếu giải thích theo cách khác, thì biểu hiện đó cũng phù hợp với Chúa phục sinh. “Khu vườn kín” mà con kỳ lân ở lại có thể chính là Địa Đàng. Cây lựu, cũng như biểu tượng của khả năng sinh sản, cũng là biểu tượng của sự sống sau cái chết, trong khi đây có thể giống như sự kết hợp kỳ lạ. Những đứa con có thể là điều gì, ngoài một cách nói khác của sự bất tử?

Tấm thảm thứ bảy là đỉnh điểm cho sự phát triển của hai huyền thoại gần như đối ngược kia. Ý nghĩa của kỳ lân, tuy nhiên, không trái ngược với những gì có thể. Kỳ lân trong Trinh Nữ Bắt Kỳ Lân/ Lễ Săn Thiêng đều đại diện cho Chúa, sự nhân cách hóa của tình yêu linh thiêng. Trong huyền thoại về tình lang – kỳ lân, con kỳ lân đại diện cho người yêu thanh cao, và về cơ bản là một người chồng biết yêu thương, sự nhân cách hóa của tình yêu con người. Tình yêu con người và tình yêu thiêng liêng là các khái niệm khác biệt lớn, nhưng sự thật vẫn tồn tại: kỳ lân là một biểu trưng cho tình yêu.

—————

The Unicorn: Creature of Love

Tác giả: Teresa Noelle Roberts

Nguồn: Mythlore, Mùa đông 1982, Vol. 8, No. 4 (30) (Mùa đông 1982), pp. 39 – 41)

Xuất bản: Mythopoeic Society

Chuyển ngữ tiếng Việt: Nguyễn Việt Hải

Một diễn giải về Kỳ lân (1)

Người dịch: Nguyễn Việt Hải   Kỳ lân, một trong những sinh vật lai diệu kỳ nhất, có sức hấp dẫn lớn đối với trí tưởng tượng cũng như rồng, từ thuở sơ khai của nền văn minh tới thời đại của chúng ta bây giờ. Không già cỗi như rồng, các đặc điểm của nó cũng không xấu xí hay đáng sợ. Người ta truy tìm nguồn gốc của nó (dù không quá thuyết phục) trong các loài động vật khác nhau, và, theo

BIỂU TƯỢNG KỲ LÂN TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN CỦA PHƯƠNG TÂY (P.1)

Bài viết có chứa một số nội dung phù hợp với lứa tuổi 16+. ---- Kỳ lân là biểu tượng chính trong "Skandar và kẻ trộm kỳ lân" của cô A. F. Steadman. Tuy nhiên, đây không phải lần đầu tiên sinh vật huyền thoại này xuất hiện trong văn học. Chúng mình xin giới thiệu đến các bạn một bài viết thú vị về kỳ lân của tác giả Teresa Noelle Roberts đăng trên tạp chí Mythlore (1982, vol. 8 ). Thông qua bài