Home Đọc Từng cá nhân sẽ đánh giá các chuẩn mực xã hội như thế nào?

Từng cá nhân sẽ đánh giá các chuẩn mực xã hội như thế nào?

Trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều thứ chúng ta cần và nên làm. Một vài việc cần được thực hiện bởi chúng được quy định bởi luật pháp, số khác có lẽ là do bị chi phối đạo đức con người. Nhưng bên cạnh đó, cũng có cơ số việc chúng ta vẫn cần làm nhưng không phải do luật pháp hay đạo đức yêu cầu. Ví dụ, chẳng có luật pháp nào bảo rằng chúng ta nên lắng nghe bạn bè; dẫu vậy, trong nhiều bối cảnh khác nhau, chúng ta vẫn nên lắng nghe họ.

Tương tự vậy, chẳng có quy định đạo đức thật sự nào nói rằng người mẹ nên ở nhà một năm đầu tiên với em bé mới sinh; dẫu vậy, trong nhiều bối cảnh khác nhau, người mẹ vẫn nên ở nhà với trẻ trong một năm đầu đời. Điều này đã đề xuất rằng, bên cạnh luật pháp và các quy chuẩn đạo đức, có tồn tại một tầng các chuẩn mực riêng biệt với số lượng đáng kể khác, được gọi dưới cái tên “Chuẩn mực xã hội”, mà các cá nhân cần phải tuân theo trong cuộc sống hằng ngày. Câu hỏi cốt lõi đã được đặt ra trong cuốn sách mới của Charlotte Witt, Chuẩn mực xã hội: Một cách tiếp cận từ Bản thể luận, có liên quan đến các chuẩn mực xã hội như vậy. Witt muốn biết điều gì đã giải thích cho một thực tế rằng mỗi cá nhân cần phải tuân theo hoặc bị ràng buộc bởi nhiều chuẩn mực xã hội khác nhau, và tại sao họ lại nên làm những việc như lắng nghe bạn bè của họ hay ở nhà với con cái.

Câu hỏi của Witt như một lời nhắc nhớ tới các triết gia rằng chuẩn mực xã hội có tồn tại, và chúng chi phối hầu hết những việc chúng ta làm. (Witt có ghi chú trong Lời tựa rằng ‘tất cả chúng ta đều đang đắm chìm trong một biển đầy những chuẩn mực xã hội, nhưng đôi khi, thật khó để có thể tuân thủ chúng một cách rạch ròi’ (Witt 2023, ix) – chà, điều này có vẻ đặc biệt khó khăn đối với các triết gia đấy!). Khi xem xét kỹ hơn, câu hỏi của Witt thực chất lại là câu hỏi 2-trong-1. Như bà đã ghi chú trong phần Giới thiệu, có một câu hỏi là Tại sao đối với mỗi cá nhân cụ thể lại nên làm những điều cụ thể của riêng họ. Tại sao một người mẹ lại cần ở nhà với con thay vì người cần ở nhà là người cha? Đây chính là câu hỏi về Khả năng áp dụng/ Tính áp dụng (Applicability) của chuẩn mực xã hội. Nhưng bên cạnh đó, những câu hỏi sâu sắc hơn cũng đã được đặt ra như tại sao có nhiều thứ không chỉ nên được thực hiện đều đặn bởi một cá nhân mà những việc đó còn nên được hoàn thiện bởi những cá nhân đó. Điều gì có thể lý giải cho thực tế rằng các chuẩn mực xã hội đang có tính ràng buộc hay tính quyền lực áp đặt lên mỗi cá nhân? Hay nói cách khác: ‘Nguồn gốc của tính chuẩn mực hóa đó là gì?”

Vào những phần đầu của cuốn sách, trong chương 2, Witt đã bàn luận về một bộ câu trả lời đáng lưu tâm cho cả hai câu hỏi phía trên, một bộ câu trả lời mà bà đã ưu ái gọi chúng là “Nhãn quan nội tại” (Internalism) (19), và chỉ riêng việc thảo luận về chúng thôi đã khiến cuốn sách này trở thành tài liệu đọc không thể thiếu đối với bất cứ ai quan tâm đến chuẩn mực xã hội, đặc biệt là tính chuẩn mực hóa. Nhãn quan nội tại cho rằng những chuẩn mực xã hội cụ thể sẽ được áp dụng cho những cá nhân cụ thể bởi lẽ chính những cá nhân đấy, bằng cách nào đó, thừa nhận các chuẩn mực, ví dụ việc họ chọn làm theo những điều một chuẩn mực cụ thể yêu cầu. Vậy nên, nhãn quan nội tại bên cạnh đó còn cung cấp một đáp án cho câu hỏi Tại sao một cá nhân nên làm những gì một chuẩn mực xã hội yêu cầu, hay Điều gì đã lý giải cho tính quyền lực trong chuẩn mực áp dụng lên các cá nhân – chính là sự thừa nhận của cá nhân đó, như đã bàn ở trên. Theo Witt, nhãn quan nội tại cũng phải đối mặt với những vấn đề rất đáng lưu tâm; những vấn đề này không phải không thể vượt qua được nhưng vẫn cần được giải quyết triệt để. Cụ thể, nhãn quan nội tại gặp khó khăn trong việc thích nghi với một thực tế rằng, trong khi một cá nhân vẫn đang bị ràng buộc bởi một chuẩn mực xã hội cụ thể thì họ cũng có thể quay ngược trở lại đánh giá chúng.

Social Norms and their Effects on Society | YIP Institute

Phản hồi lại về những vấn đề này, Witt ủng hộ nhãn quan ngoại tại (Externalism) và cụ thể hơn là việc phát triển một mô hình nghệ nhân về quá trình chuẩn mực hóa những chuẩn mực xã hội, nhằm giải thích cho câu hỏi điều gì đã làm nên tính chuẩn hóa của chuẩn mực xã hội. Đầu tiên, bà lập luận một cách thuyết phục về nhãn quan ngoại tại, một góc nhìn lý giải cho lý do những chuẩn mực xã hội cụ thể lại được áp dụng cho những cá nhân cụ thể, “đơn giản chỉ là do những vị trí xã hội mà họ đang nắm giữ”. Như vậy, có thể thấy được rằng lý do người mẹ chúng ta đã nhắc tới ở ví dụ phía trên nên ở nhà với con cá nhân đó đơn giản chỉ là vì cá nhân đó đang là một người mẹ. Có thể chính cá nhân đó cũng thích ở nhà, nhưng cá nhân đó vẫn cần làm theo chuẩn mực xã hội này ngay cả khi cá nhân đó không muốn ở nhà và ngay cả khi cá nhân đó quyết định sẽ không ở nhà. Kế đến bước thứ hai, Witt đã kiểm tra xem vị trí xã hội của một cá nhân có yếu tố gì mà lại có thể làm nên thẩm quyền (tính áp dụng lên cá nhân đấy) của các chuẩn mực đang được đề cập.

Dựa theo Aristotle và theo những gì khái quát được từ ví dụ về nghề thủ công hoặc thợ thủ công, bà lập luận rằng mỗi địa vị xã hội cụ thể đều có chức năng hay những công việc cụ thể gắn liền với nó – chức năng của một người thợ làm bánh là làm ra những chiếc bánh; tương tự, chức năng của một người mẹ là làm mẹ – và người nắm giữ vị trí được giao đó nên làm theo những chuẩn mực cụ thể được yêu cầu nhằm mục đích hoàn thành trọn vẹn chức năng của công việc đó. Như Witt đã nói, “chuẩn mực được xây dựng dựa trên chức năng hoặc công việc cần được thực hiện”. Những người mẹ cần phải làm mẹ – và đó là lý do họ nên ở nhà.

Trong phần kế tiếp, tôi muốn tập trung vào một yêu cầu cụ thể mà Witt đã đưa ra cho bất kỳ lý thuyết nào về tính chuẩn mực của xã hội. Theo Witt, bất cứ lý thuyết nào về tính chuẩn mực của xã hội đều phải có khả năng giải thích được lý do vì sao lại có “những người chỉ trích các chuẩn mực xã hội mà họ phải tuân theo cũng như những người không tuân thủ các chuẩn mực xã hội” . Lưu ý rằng yêu cầu này cần nhiều hơn thế, một lý thuyết về tính chuẩn mực của xã hội cần phải lý giải được vì sao các cá nhân vẫn bị gắn bởi những chuẩn mực xã hội ngay cả khi họ chỉ trích/ đánh giá hoặc không làm theo những mong muốn đó, hoặc cả hai. Yêu cầu này kỳ vọng rằng một lý thuyết về tính chuẩn mực của xã hội cần lý giải được vì sao các cá nhân có thể chỉ trích và/ hoặc không làm theo chính chuẩn mực mà họ đang bị ràng buộc vào. Tôi không hoàn toàn tin rằng đây là một phần không thể thiếu trong lý thuyết về chuẩn mực xã hội; hơn thế nữa, đây là một phần của một cuộc tranh luận lớn hơn về thứ đã xác định việc một cá nhân nên hay không nên làm những điều gì và vai trò của họ trong mối quan hệ với các chuẩn mực đó. Nhưng, tôi rất đồng tình với quan điểm của Witt, rằng “sự thú vị và … tầm quan trọng để hiểu … khả năng của chúng ta để có thể chỉ trích” các chuẩn mực xã hội. Tôi mong muốn xem xét kỹ càng hơn đề xuất mà Witt đã đưa ra dựa trên mô hình nghệ nhân về chuẩn mực xã hội của bà.

Trong chương 5, Witt đã trình bày để chứng minh rằng mô hình nghệ nhân của bà về tính chuẩn mực của xã hội có những nguồn nguồn lực quan trọng có thể giải thích khả năng của các cá nhân đã tham gia phê bình, và do đó giải thích sự tồn tại của ‘tự phê phán’. Bà không chỉ tập trung vào những chỉ trích các chuẩn mực xã hội cụ thể – chẳng hạn như các chuẩn mực đã yêu cầu người mẹ ở nhà với con nhỏ trong một năm – mà còn đề cập đến những phê bình về sự tồn tại của toàn bộ các loại hình hoạt động và chức năng mà chúng yêu cầu, ví dụ, hoạt động và chức năng của chính việc làm mẹ.

Có hai yếu tố cốt lõi trong mô hình nghệ nhân của bà – đó là kỹ thuật và chuyên môn – trong đó chuyên môn đặc biệt quan trọng trong giải thích của Witt về khả năng của các cá nhân tham gia vào việc chỉ trích cả các chuẩn mực xã hội cụ thể và toàn bộ các loại hình hoạt động và chức năng của chúng. Theo Witt, kỹ thuật là ‘cách thức thực hiện một việc gì đó’. Cụ thể, kỹ thuật là cách thức tham gia vào một loại hình hoạt động, chẳng hạn như hoạt động làm mẹ, để thực hiện trọn vẹn một chức năng hoặc công việc, chẳng hạn như công việc làm mẹ. Bà cũng nhấn mạnh rằng những kỹ thuật này luôn mang tính bản địa, chúng là vấn đề về cách mà mọi thứ nên được thực hiện ‘ở đây/ ở vị trí này’ (xem, ví dụ, trang 72).

Chuyên môn là sự thành thạo về kỹ thuật của cá nhân. Đó là ‘biết cách thực hiện một việc gì đó theo cách mà người ta nên làm ở đây’. Điều quan trọng là, chuyên môn cũng bao gồm việc biết cách thức nó được thực hiện. Theo Witt, đó là việc “biết cách làm và biết lý do”. Ngoài ra, một chuyên môn cụ thể, chẳng hạn như thành thạo các kỹ thuật làm mẹ hay nướng bánh, luôn đi đôi với một ‘thói quen’ hoặc một ‘định hướng hướng đến sự xuất sắc’ chung được hình thành trong quá trình phát triển một chuyên môn cụ thể. Witt lập luận rằng cả thành phần ‘biết lý do’ của một chuyên môn cụ thể và cảm giác xuất sắc chung đều cho phép các cá nhân tham gia vào việc phê bình. Đề xuất của bà thành công đến mức nào trong việc giải thích sự tồn tại của cái tôi phê bình?

Tìm hiểu thêm về Chuẩn mực xã hội: Một cách tiếp cận từ Bản thể luận – Charlotte 

Đề xuất của Witt hiện nay đã cung cấp một số nguồn lực để giải thích khả năng các cá nhân tham gia phê bình. Nhưng hiện tại, chúng vẫn bị giới hạn nghiêm trọng. Đề xuất này gặp khó khăn trong việc giải thích những chỉ trích đến từ các cá nhân đối với toàn bộ các loại hình hoạt động (i), sự phê bình đến từ những người không phải chuyên gia (ii), sự phê bình trong bối cảnh thực hiện chuyển giao các kỹ thuật (iii) và sự phê bình ngoài sự xuất sắc hoặc thiếu xuất sắc (iv). Sau đây tôi sẽ lần lượt giải quyết bốn quan điểm này:

(i) Thứ nhất, có vẻ như đề xuất của Witt đã giải thích khả năng của các cá nhân phê bình những chuẩn mực xã hội cụ thể tốt hơn nhiều so với việc giải thích khả năng của các cá nhân phê bình tất cả các loại hình hoạt động và chức năng của chuẩn mực xã hội. Theo Witt, điều cho phép các cá nhân đánh giá các chuẩn mực xã hội cụ thể là nhờ vào chuyên môn cụ thể của họ và đặc biệt là việc biết những lý do (“know-why”) vốn là một phần của nó. Một thợ làm bánh chuyên nghiệp biết cách làm bánh mì sourdough, nhưng cá nhân đó cũng biết tại sao cá nhân đó nên làm công việc đó theo một cách cụ thể. Điều này đặt cá nhân đó vào vị trí phù hợp để đánh giá và cải thiện các kỹ thuật làm bánh mì sourdough.

Như Witt đã giải thích, khi những lý do để làm điều gì đó theo một cách cụ thể được làm rõ, ví dụ như khi ai đó suy ngẫm về những lý do đó để có thể hoàn thiện kỹ thuật của họ, sự đánh giá về cách làm cụ thể đó trở nên khả thi. Mặc dù điều này rất thuyết phục, nhưng có vẻ như việc ‘biết lý do’, có lẽ đã được kết hợp với một cảm giác chung về sự xuất sắc để định hướng chúng ta tiếp tục cố gắng đến độ mà các kỹ thuật mà chúng ta sở hữu trở nên hoàn hảo, chỉ có thể tiếp tục đưa chúng ta tiến lên.

Việc ‘biết lý do’ cho phép chúng ta suy ngẫm về các kỹ thuật hay kiến thức thực hành, cách thức mà một điều gì đó nên được thực hiện, nhưng liệu nó có khiến họ suy ngẫm về những gì đã được thực hiện bằng các kỹ thuật này không? Nói cách khác: liệu việc ‘biết lý do’ có làm cho việc phê bình toàn bộ các loại hoạt động và chức năng của chúng – như làm bánh hoặc làm mẹ – trở nên khả thi không? Nếu không, làm thế nào mà sự phê bình toàn diện hơn về toàn bộ các loại hình hoạt động và chức năng của chúng có thể xảy ra?

(ii) Trong khi quan điểm trước liên quan đến những gì cá nhân có thể phê bình và đánh giá, quan điểm thứ hai lại liên quan đến việc ai có thể tham gia vào đánh giá cả các chuẩn mực xã hội cụ thể và toàn bộ các loại hình hoạt động. Như chúng ta đã thấy, Witt cho rằng việc ‘biết lý do’ cho phép các cá nhân tham gia vào phê bình. Theo Witt, một hệ quả quan trọng điều này đã dẫn tới là, chỉ những cá nhân là chuyên gia trong một số hoạt động nhất định mới có thể tham gia vào việc phê bình liên quan đến các hoạt động đó. Trong nhiều trường hợp, khả năng các chuyên gia có vị thế cao hơn dường như sẽ có thể đưa ra lời chỉ trích đúng hơn so với những người không phải chuyên gia. Hãy nghĩ lại về những người thợ làm bánh chuyên nghiệp của chúng ta, người có thể đánh giá các chuẩn mực cụ thể của việc làm bánh vì cá nhân đó ‘biết những lý do’ có liên quan đến việc làm bánh, nhưng cá nhân đó lại không có khả năng phê bình các chuẩn mực trong việc mổ thịt một cách có hiểu biết.

Nhưng cũng có những ví dụ quan trọng về sự phê bình đến từ những người không phải chuyên gia. Witt liên tục quay lại trường hợp của người chủ nô lệ chuyên nghiệp (xem, ví dụ, trang 35 và 123), và tôi muốn sử dụng ví dụ về việc đánh giá các hoạt động liên quan đến nô dịch con người để minh họa cho quan điểm này. Hoạt động chung của nô dịch con người chủ yếu bị chỉ trích bởi những cá nhân đã từng bị nô dịch, cũng như bởi các đồng minh chính trị của họ, nhưng, điều quan trọng là không phải bởi những người chủ nô lệ. Vì vậy, có những người không có chuyên môn và do đó không ‘biết những lý do’ có liên quan đến việc nô dịch con người, nhưng vẫn đánh giá loại hình hoạt động này. Có vẻ như đề xuất của Witt, hiện nay, chưa cung cấp bất kỳ nguồn lực nào có thể giải thích khả năng của những người không phải chuyên gia tham gia vào phê bình.

(iii) Trong chương 7, chương cuối cùng của cuốn sách, Witt đã đưa ra một cuộc thảo luận rất thú vị về hệ thống phân cấp xã hội. Bà lưu ý rằng mỗi loại hệ thống phân cấp là một ‘đặc tính cần thiết cho mô hình nghệ nhân’: chuyên môn là thứ cần phải đạt được thông qua việc học tập, và bởi vì chính điều này mà các cá nhân sẽ phụ thuộc vào những cá nhân khác đã là chuyên gia trong hoạt động được đề cập. Bà viết: ‘Kỹ năng và chuyên môn chuyển từ chuyên gia sang người học mới trong mô hình nghệ nhân. Mối quan hệ người học mới – chuyên gia là trung tâm của quá trình truyền đạt (và phát triển) kỹ thuật thủ công’. Từ góc nhìn đạo đức, loại hệ thống phân cấp này trong bối cảnh truyền đạt kỹ thuật, tự nó không có vấn đề gì, và Witt cũng lưu ý rằng ‘mối quan hệ phân cấp giữa chuyên gia và người học việc trong quá trình truyền đạt có thể nhường chỗ cho một mối quan hệ bình đẳng theo chuẩn mực giữa các đồng nghiệp’. Cho đến nay điều này vẫn là hợp lý. Tuy nhiên, điều mà Witt không bàn luận rõ ràng là loại hệ thống phân cấp này có thể trở thành một kiểu áp bức trong khi quá trình truyền đạt kỹ thuật vẫn đang được diễn ra.

Không quá khó để tìm thấy ví dụ cho điều này. Hãy nghĩ đến một giáo sư đại học lạm dụng quyền lực của mình để làm nhục một số sinh viên. Điều này đặt ra câu hỏi liệu mô hình nghệ nhân có cung cấp bất kỳ nguồn lực nào để có thể giải thích những đánh giá xã hội về vấn đề áp bức trong bối cảnh truyền đạt kỹ thuật, đặc biệt là khả năng của những người mới học thực hiện phê bình sự áp bức đó, bởi hoặc liên quan đến các chuyên gia hay không. Như chúng ta đã thấy, theo đề xuất của Witt, chỉ những cá nhân là chuyên gia, những người ‘biết những lý do’ có liên quan, mới có thể tham gia vào việc đánh giá các hoạt động mà họ có chuyên môn. Những người mới học là một trường hợp đặc biệt của những người không phải chuyên gia – họ khao khát trở thành chuyên gia, nhưng vẫn chưa phải chuyên gia. Vì vậy, theo quan điểm đề xuất của Witt, những người mới học sẽ không thể tham gia vào phê bình. Nếu các sinh viên trong ví dụ được trích dẫn phía trên đứng lên chống lại giáo sư của họ và lên án hành vi lạm dụng, chúng ta sẽ cần phải dựa vào các nguồn lực bổ sung để giải thích cách thức họ có thể làm điều này.

(iv) Cuối cùng, nếu tôi hiểu đúng theo như quan điểm đề xuất của Witt, loại phê bình duy nhất mà nó có thể giải thích – dù là phê bình các chuẩn mực xã hội cụ thể hay toàn bộ các loại hình hoạt động – là phê bình bằng sự xuất sắc hoặc thiếu xuất sắc. Đây không phải là vấn đề về những gì cá nhân có thể phê bình, hoặc ai có thể tham gia vào phê bình, mà là về cơ sở tại sao các chuẩn mực xã hội cụ thể, hoặc toàn bộ các loại hình hoạt động, bị phê bình. Mối quan tâm của tôi về quan điểm đề xuất của Witt là, như hiện nay, quan điểm đó đang quá hẹp để có thể nắm bắt được các loại hình phê bình quan trọng mà mọi người đưa ra. Có vẻ như con người phê bình cả các chuẩn mực xã hội cụ thể và toàn bộ các loại hình hoạt động vì nhiều lý do, và chỉ một vài trong số đó có liên quan đến giá trị của sự xuất sắc. Quay lại ví dụ trước, việc có những người chịu sự nô dịch và những người chủ nô lệ là một sự bất công lớn liên quan đến vấn đề đối xử với con người như một loại tài sản, một sự bất công không hề dễ dàng để có thể phân tích bằng thuật ngữ xuất sắc hoặc thiếu xuất sắc.

Tương tự, nếu người ta xem xét những đánh giá nữ quyền về một số chuẩn mực xã hội mà phụ nữ phải tuân theo, nhiều trong số chúng không thể được hiểu là những nỗ lực để hoàn thiện các kỹ thuật để trở thành một người phụ nữ, có mục đích là giúp phụ nữ xuất sắc trong việc làm phụ nữ. Nhiều đánh giá được đề cập, được hiểu rõ hơn là chỉ ra những cách làm phụ nữ ít gây hại, ít xa lánh và ít bất công hơn. Một ví dụ điển hình là các chuẩn mực về ngoại hình theo giới tính (xem ví dụ này ở trang 86). Mục đích của đánh giá nữ quyền về các chuẩn mực yêu cầu phụ nữ phải trông gợi cảm không phải là để khiến phụ nữ trở nên giỏi hơn trong việc trông gợi cảm; thay vào đó, họ bác bỏ sự vật hóa phụ nữ trong nền văn hóa của chúng ta mà các chuẩn mực đó thúc đẩy. Tôi muốn lắng nghe thêm về cách các phê bình loại này có thể được điều chỉnh trong quan điểm đề xuất của Witt.

Tóm lại, tôi muốn nhắc lại rằng cuốn sách Chuẩn mực xã hội là một tác phẩm vô cùng sâu sắc. Nó cung cấp một cái nhìn thực sự khai phóng về tính áp dụng của các chuẩn mực xã hội đối với cá nhân cùng sự giải thích rất phong phú về cơ sở của tính chuẩn mực trong các chuẩn mực xã hội. Những câu hỏi tôi đã nêu ra về các quan điểm đề xuất của Witt nhằm giải thích khả năng của những cá nhân phê bình các chuẩn mực mà họ phải tuân theo xuất phát từ một người hâm mộ tác phẩm của Witt, người hy vọng học hỏi thêm từ một trong những nhà bản thể học xã hội thú vị nhất trong thời đại chúng ta.

Tài liệu tham khảo:
Douglass, Frederick. 1855. My Bondage and My Freedom. New York: Miller, Orton &
Mulligan. Repr., New Haven, CT: Yale University Press, 2014.
Haslanger, Sally. 2012. “Oppressions: Racial and Other.” In Resisting Reality: Social
Construction and Social Critique, 311–338. New York: Oxford University Press.
Kelly, Daniel, and Katherine Ritchie. Forthcoming. “Social Goodness. The Ontology of
Social Norms by Charlotte Witt.” Mind.
Witt, Charlotte. 2023. Social Goodness. The Ontology of Social Norms. New York: Oxford University Press.

Kristina Leopold – Khoa Triết học, Đại học Humboldt Berlin, Unter den Linden 6, 10099, Berlin, Đức

Người dịch: Lam Hoàng

Luân Lý Học của Aristotle: Từ Lý trí Đúng tới Trung Đạo

Vượt qua những khó khăn do sự khác biệt văn phong, chúng ta sẽ chạm đến lối tư duy và cách biện luận của Aristotle, những điều rất hữu ích cho mỗi chúng ta trong thế giới hiện đại. Dù sống ở thời Hy Lạp cổ đại, cách chúng ta hơn 2300 năm, dù nhiều quan điểm của ông bị giới khoa học hiện đại bác bỏ, nhưng ông vẫn là một bộ óc lỗi lạc với những nền móng tư tưởng và phương pháp
le-nam

Lê Nam

13/02/2023

Phỏng vấn Michael Sandel về Công bằng

Chúng ta có nên tra khảo một người để cứu nhiều người hơn? Công bằng[1] là gì? Hãy đồng hành cùng với BBC4 trong chương trình về công bằng, triết gia Michael Sandel (tác giả tác phẩm "Phải trái đúng sai") sẽ giải thích tại sao công bằng luôn là trung tâm cho tranh luận chính trị hiện nay. Nigel Warburton:  Đối với tôi, từ công bằng có vẻ như ám chỉ việc tồn tại sự bất công trên thế giới – nó có vẻ

Chu Huyền

22/04/2020

Tại sao xã hội vẫn cần người hùng? – Từ anh hùng cổ đại đến chủ nghĩa anh hùng suy đồi

Tôi muốn kể với các bạn một câu chuyện mà tôi được biết để bắt đầu cho bài viết bàn luận về người hùng và chủ nghĩa anh hùng mà tôi đã ấp ủ từ lâu.  Năm 2020, giữa lúc cả thế giới đều sống trong biệt lập và run rẩy trước đại dịch COVID-19, chúng tôi nhận được một lời giới thiệu từ ông Chuck Searcy, một cựu chiến binh Mỹ đang rà phá bom mìn khắc phục hậu quả chiến tranh tại Việt

Làm thế nào để hạnh phúc: 11 chỉ dẫn để có một cuộc sống tốt đẹp của Aristotle

Mọi người thường hòi "Tôi nên làm gì?" khi đối mặt với một vấn đề luân lý. Aristotle thúc giục chúng ta hỏi "Tôi nên trở thành loại người như thế nào?" Các ý quan trọng trong bài: Trong tác phẩm Luân lý học của mình, Aristotle đề xuất rằng con người là động vật lý trí, có tính xã hội luôn tìm cách “sống tốt”. Ông đề xuất một hệ thống luân lý được thiết kế để giúp chúng ta đạt được hạnh phúc

Book Hunter

21/12/2022

Aristotle có thể dạy chúng ta điều gì về sự tương giao

Có vài thứ bạn sẽ không chứng kiến được trên Facebook: chỉ người có phẩm hạnh mới có thể là người bạn thực sự Dàn diễn viên của ‘Friends’: Aristotle cho biết những người lớn tuổi thường theo đuổi tương giao dựa trên lợi ích, những người trẻ tuổi thường theo đuổi tương giao dựa trên khoái lạc. Ảnh: Reuters "Ai là nhà tư tưởng vĩ đại nhất mọi thời đại?" là loại câu hỏi được đưa ra ở quán rượu và chắc chắn tạo