Home Đọc Luận giải Đạo Đức Kinh (1): Vô trọng biết sâu, Hữu trọng biết rộng

Luận giải Đạo Đức Kinh (1): Vô trọng biết sâu, Hữu trọng biết rộng

Tôi đã từng đọc nhiều bản dịch và luận giải Đạo Đức Kinh, và tôi thấy thương thay cho Lão Tử. Lão Tử đưa ra một luận thuyết ngắn gọn chưa từng có trong lịch sử triết học của nhân loại bởi ông tự thấy càng nói càng sai, ấy thế mà những người dịch Đạo Đức Kinh sang tiếng Việt và cố gắng luận giải ông lại dùng nhiều lời đến vậy để đưa luận thuyết của ông vào lối lập luận vòng quanh tối nghĩa. Kỳ thực, Đạo Đức Kinh rất sáng rõ, chỉ vì người đời cố huyền bí hóa nên đưa cuốn kinh này vào chỗ mông lung.

Trong đêm giao thừa chuyển từ Nhâm Dần sang Qúy Mão, khi kết thúc một năm đầy biến ảo khôn lường và chuẩn bị bước vào một năm cũng đầy biến ảo sắp tới, tôi bắt đầu chuỗi bài luận giải Đạo Đức Kinh, vừa để mình sáng rõ hơn, vừa để những bạn đọc Book Hunter cùng tôi chiêm nghiệm. Chuỗi bài sẽ men theo từng câu trong Đạo Đức Kinh để giải và luận. Mỗi bài đều có phần dịch mới của tôi, theo cách hiểu của tôi, nhiều câu khác với cách hiểu thông thường. Dẫu biết lời càng nói càng xa chân tướng, nhưng có hề gì, nói là để thấu rõ lòng mình.

>> Đọc đầy đủ chùm bài: Luận giải Đạo Đức Kinh Archives – Book Hunter

=====

Đạo khả đạo phi hằng đạo.
Danh khả danh phi hằng danh.
Vô danh thiên địa chi thủy;
Hữu danh vạn vật chi mẫu.Cố,
Thường “vô” dục dĩ quan kì diệu;
Thường “ hữu” dục dĩ quan kì kiếu.
Thử lưỡng giả,
đồng xuất nhi dị danh,
đồng vị chi huyền.
Huyền chi hựu huyền,
chúng diệu chi môn.

Thiên hạ:
Giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ.
Giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ.

Hữu vô tương sinh, nan dịch tương thành;
Trường đoản tương hình, cao hạ tương doanh;
Âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy.

Thị dĩ,
Thánh nhân:
xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo;

Vạn vật:
Tác nhi phất thủy, sanh nhi phất hữu,
Vi nhi phất thị, công thành nhi bất cư.
Phu duy phất cư, thị dĩ bất khứ.

Đạo để hành đạo chẳng phải đạo
Danh để nêu danh chẳng phải danh
Ban sơ trời đất không tên
Khởi thủy vạn vật hữu danhVậy nên,
Năng cầu “vô” xét tinh yếu
Năng cầu “hữu” xét ngoại tính
Cả hai tuy,
khởi đầu khác nhau
nhưng đều huyền nhiệm.
Huyền môn nào cũng vậy
đều trọng yếu như nhau.

Ai cũng biết:
Đẹp mà cố để đẹp thì tất xấu
Thiện mà cố để thiện thì bất thiện

Hữu vô dựa nhau, khó dễ cùng trọn
Dài ngắn thành dạng, cao thấp đều đủ
Âm thanh hòa điệu, trước sau phụ thuộc.

Đúng như
Thánh nhân lấy:
Vô vi để hành xử, không dùng lời để chỉ dạy.

Vạn vật thì,
Cố tác động chẳng thể bắt đầu, cố thành sự thì chẳng được gì.
Anh càng cố không buông tay thì cũng không gì biến chuyển

Luận giải:

Đạo mà có thể theo đó để làm thì vốn dĩ không phải Đạo, ấy là bởi Đạo vốn chẳng cưỡng cầu, tự nhiên vạn sự thế gian ngẫu nhiên tạo thành trong hoàn hảo. Cố hành đạo tức cố bắt chước tự nhiên, thì đã trật bước khỏi đại đạo. Giống như bông hoa tự nhiên nở đẹp nhất khi hội hợp mọi thành tố của tự nhiên, nhưng khi ta cố thúc ép gọt tỉa để hoa nở đúng thời điểm ta kì vọng thì ta đã bắt bông hoa trái với đạo, bông hoa không đạt được thời điểm hội hợp cần thiết, vì thế không đẹp được như ý nguyện.

Danh mà có thể định danh thì không phải danh đích thực. Con người cần phải gọi tên vạn vật và muôn sự sao cho biểu thị được toàn bộ, nhưng càng đặt tên thì càng không biểu thị đúng mà chỉ được một phần. Một phần không thể đại diện cho toàn bộ, nên càng cố định danh thì càng không nhận diện được vạn vật và muôn sự. Dùng lời bởi thế càng lúc càng xa Đạo.

Trời Đất là một khái niệm đa nghĩa và trừu tượng, không phải chỉ để ám chỉ bầu trời và mặt đất, mà ý muốn nói không thời gian, hay xa hơn là toàn thể vũ trụ vạn vật, và sâu hơn là lẽ ẩn sau muôn sự vạn vật mà trong văn minh phương Tây vẫn gọi là “Siêu Hình” và các tôn giáo gọi là “Thượng Đế”. Ở cõi giới ấy thì vốn không thể định được danh, bởi ngôn từ không thể diễn tả được tận cùng, vì nó không hiện hữu chẳng hình tướng.

Nhưng vạn vật vốn là thứ hiện hữu và có hình tướng, tức là thứ ta có thể cảm nhận thấy, có thể dùng lời để biểu thị, thế nên vạn vật thì hữu danh. Chữ “danh” ở đây không thể hiểu một cách thô thiển là tên hay gọi tên, mà là có thể nhận diện được, có thể biết được. Thế nên, ý Lão Tử muốn nói, vạn vật thì có thể biết được nhưng thứ không hiện hữu kia thì không thể biết được.

Trái với cách hiểu sai rằng Lão Tử trọng cõi “vô” hơn cõi “hữu”, nếu dịch sát nghĩa “Đạo Đức Kinh” và phân tích cách biện luận đối ngẫu của ông, ta sẽ thấy rằng ông trọng “hữu” và “vô” ngang nhau. Ông cho rằng, người mong muốn hiểu lẽ “vô” thì phải xem xét đến những điều trọng yếu, tức cốt lõi hay tự tính của sự vật sự việc. Nhưng người muốn hiểu cõi “hữu” thì phải xem xét đến ngoại tính của sự vật sự việc, bởi vì tại cõi hữu hình mọi thứ luôn biến chuyển, xem xét từng ngoại tính thì mới nắm bắt đủ. Như vậy, có thể hiểu rằng, người cầu “vô” thì đi vào chiều sâu, mà người cầu “hữu” thì đi ra bề rộng. Lão Tử không trọng bên nào, không khinh bên nào, bởi Đạo hay lẽ huyền nhiệm nằm ở cả hữu vô.

Như đã bàn ở trên, Đạo tự có trật tự tự nhiên, con người gắng gượng bắt chước thì chỉ lố bịch. Nên phải bắt chước để đạt được theo một khuôn mẫu nào đó thì thứ nhận lại sẽ trái với tự tính, trái với Đạo. Cố cưỡng cầu để đẹp thì sẽ thành xấu mà cố để đạt tới thiện thì sẽ chẳng phải là cái thiện thực sự. Nhưng điều đó không phải là không cần đẹp, không cần thiện, mà là vạn vật vạn sự hay chúng sinh đều có phẩm tính riêng biệt, bắt chước cái đẹp cái thiện của thứ khác thì xa rời tự tính của chính mình để không tự hội hợp được đủ điều kiện để thăng hoa đến cái đẹp và cái thiện của mình.

Mọi cặp đối lập trong vũ trụ cần nương tựa vào nhau để tồn tại, có hữu thì có vô, có khó ắt có dễ, có dài thì có ngắn, có trước thì có sau… tất thảy như một bản nhạc mà mọi âm thanh hài hòa không thiên lệch. Hòa điệu tự nhiên chẳng hề cố gắng đi ngược lại tự tính của mình để bắt chước tha nhân, chính là vô vi. Thánh nhân là người đạt được vô vi mà không cố để vô vi. Là người suy xét cõi vô nên thánh nhân chạm vào những thứ không thể nhận biết bằng giác quan thông thường. Bởi thế, truyền lẽ vô thì không thể dùng lời mà diễn tả, vì dùng lời là đã cố cưỡng cầu đem cái vô hạn để định hình trong cái hữu hạn.

Trong khi ấy, vạn vật vốn ở cõi hữu, tự thân cũng có quy luật của mình. Nếu cố tác động thay đổi vạn vật, tức trói buộc vạn vật đi xa khỏi tự tính, thì chẳng thể hiểu vạn vật cũng chẳng thể chạm vào tự tính của vạn vật. Tự tính của vạn vật không thay đổi thì vạn vật vốn dĩ cũng chẳng thay đổi, hóa ra chẳng có gì được tạo tác dù cố gắng tạo tác, càng muốn việc thành thì hóa ra cũng chẳng có gì nên việc. Lúc ấy, càng cố thúc ép không chịu buông tay ngưng tác động thì mọi thứ càng trì trệ chẳng có gì biến chuyển.

Hà Thủy Nguyên

(Còn tiếp)

Đạo không lối vào nhưng thế giới hiện đại vẽ ra muôn lối vào

Năm 12 tuổi, tôi lang thang trong những tiệm sách ngổn ngang thượng vàng hạ cám ở phố Đinh Lễ trong trạng thái mông lung và thôi thúc. Chẳng có một bậc thầy để hướng dẫn, chẳng có một chuyên gia để hỏi han, chỉ có sự khuyến khích của bố mẹ tôi rằng tôi có thể mua bất cứ cuốn sách nào tôi muốn. Có lẽ, khi vô định, chẳng động cơ, lại là cách đưa tôi đến với điều cần được biết trong

Luận giải Đạo Đức Kinh (2): Thuận theo Đạo là không thiên lệch

>> Đọc đầy đủ chùm bài: Luận giải Đạo Đức Kinh Archives - Book Hunter Bất thượng hiền, sử dân bất tranh; Bất quý nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo; Bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn.Thị dĩ Thánh nhân chi trị: Hư kì tâm, Thật kì phúc, Nhược kì chí, cường kì cốt. Thường sử dân vô tri vô dục. Sử phu trí giả bất cảm vi dã. Vi vô vi, tắc vô bất trị. Đạo xung, nhi dụng