Home Đọc Anne Firth Murray nói gì về vấn đề sức khỏe sinh sản của phụ nữ ở những quốc gia nghèo đói và kém phát triển qua cuốn sách “Từ phẫn nộ đến can đảm”?

Anne Firth Murray nói gì về vấn đề sức khỏe sinh sản của phụ nữ ở những quốc gia nghèo đói và kém phát triển qua cuốn sách “Từ phẫn nộ đến can đảm”?

Nếu một ngày bạn thức dậy và nhận ra rằng quyền được sống khỏe mạnh, được giáo dục đầy đủ và có cảm giác an toàn trong mọi khía cạnh của cuộc sống không hề là điều hiển nhiên đối với phần lớn hàng triệu phụ nữ trên thế giới, bạn sẽ cảm thấy thế nào?

“Từ Phẫn Nộ Đến Can Đảm: Tình trạng bất bình đẳng và thiếu lành mạnh đối với phụ nữ ở những quốc gia nghèo và cách họ hành động” của Anne Firth Murray là một lời cảnh tỉnh đầy mạnh mẽ, nhưng không chỉ để khiến chúng ta bàng hoàng trước thực trạng bất công, mà còn để truyền cảm hứng hành động. Cuốn sách mở ra một bức tranh chân thực về cuộc sống của những người phụ nữ ở các quốc gia nghèo, nơi họ phải đối mặt với bạo lực, nghèo đói, sự phân biệt đối xử và những nguy cơ về sức khỏe. Nhưng trong những hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, họ không chỉ chịu đựng – họ vùng lên, họ đấu tranh, và họ thay đổi cuộc sống của mình.

Ở chương đầu tiên của cuốn sách, Anne Firth Murray (từ giờ sẽ gọi là Murray) đưa ra một câu trả lời cho câu hỏi “Tại sao nên tập trung vào nữ giới?” – một câu hỏi được xem như là mở đầu cho cuộc hành trình khai thác về hình ảnh những người phụ nữ yếu thế đang từng ngày chống chọi lại sự bất công và bất bình đẳng giới rằng:

Phụ nữ, dù khỏe mạnh hay không, đều là trung tâm của gia đình và xã hội. Sức khỏe của người phụ nữ ảnh hưởng đến mọi khía cạnh trong cuộc sống của cô ấy và do đó ảnh hưởng đến gia đình và cộng đồng của cô ấy….Phụ nữ không chỉ là thành viên có năng suất trong một gia đình; mà họ thường tạo ra sự an toàn. Nếu sự thật về cuộc sống của người phụ nữ với tất cả phức tạp, bị chúng ta lờ đi thì sẽ không có bất kỳ một sự thay đổi nào.

và bà cũng nói một cách khái quát về hình ảnh sự phụ thuộc của người phụ nữ rằng:

Sự phụ thuộc của phụ nữ ăn sâu vào trong cuộc sống của cả nam và nữ… Theo thời gian, văn hóa, tôn giáo và hầu hết các hệ thống xã hội, bao gồm hệ thống giáo dục, pháp lý và y tế, cả truyền thống và hiện đại đều có xu hướng phân cấp trong cấu trúc, đã gán địa vị và quyền lực thấp hơn cho phụ nữ và các nhóm ở bên lề xã hội khác. Sự phụ thuộc của phụ nữ và trẻ em gái có nhiều hình thức. Khi sinh, lễ ăn mừng có thể khác nhau tùy theo giới tính của em bé. Ở thời thơ ấu, khả năng tiếp cận thực phẩm, chăm sóc sức khỏe và giáo dục của trẻ em gái và trẻ em trai thường khác nhau. Sau đó trong cuộc sống, sự phụ thuộc của phụ nữ được minh họa trong việc vật hóa cơ thể của phụ nữ, phân chia giới tính trong lao động và lạm dụng dai dẳng phụ nữ và trẻ em gái.

Trong cuốn sách này, tác giả Murray đã đưa ra một cái nhìn sâu sắc về vấn đề sinh sản và sức khỏe sinh sản trên phạm vi toàn cầu (Chương 5: Con đường tử thần của thai sản: Sức khỏe sinh sản và tình dục). Với bà, sức khỏe sinh sản không thể bị thu hẹp thành những dịch vụ y tế đơn lẻ, mà phải được coi như một quyền cơ bản của con người, gắn liền với phẩm giá, sự tự do và khả năng sống một cuộc đời trọn vẹn của mỗi người phụ nữ. Chính vì thế, khi phụ nữ bị tước đi quyền tự quyết về cơ thể của mình, họ không chỉ đối diện với những nguy cơ bệnh tật hay tỉ lệ tử vong mà còn bị mắc kẹt trong những cấu trúc bất công của xã hội khiến nghèo đói, bất bình đẳng và những sự áp bức trở nên dai dẳng qua nhiều thế hệ.

> Tìm hiểu thêm: Từ phẫn nộ đến can đảm – Anne Firth Murray – Book Hunter Lyceum

Murray đặc biệt nhấn mạnh đến sự bất bình đẳng sâu sắc giữa các vùng trên thế giới. Ở nhiều quốc gia đang phát triển, tỷ lệ tử vong ở các bà mẹ vẫn nằm mức đáng báo động, phần lớn do thiếu các dịch vụ sản khoa cơ bản.

Trong số hơn nửa triệu ca tử vong ở các bà mẹ có thể phòng ngừa được mỗi năm, 80% có nguyên nhân trực tiếp là các biến chứng sản khoa như mất máu cấp tính (25%), nhiễm trùng (15%), rối loạn tăng huyết áp (12%), chuyển dạ khó (8%) và phá thai không an toàn (13%). Sốt rét, tiểu đường, viêm gan và thiếu máu, vốn trở nên trầm trọng hơn do mang thai, cũng giết chết người phụ nữ.

Những cô gái bị ép buộc kết hôn từ khi còn rất trẻ, sinh con liên tục mà không có điều kiện chăm sóc y tế, hoặc thậm chí không được quyền lựa chọn sử dụng biện pháp tránh thai và phải tìm tới cách phá thai vì không đáp ứng đủ nhu cầu khi hạ sinh, và còn đặc biệt hơn là tỉ lệ những người phụ nữ này có phần lớn ở các nước đang phát triển, như bà nói:

Trong số nhiều phụ nữ tử vong mỗi ngày vì phá thai không an toàn, hầu như tất cả đều sống và chết ở các nước đang phát triển. Những phụ nữ này chết vì các cấu trúc xã hội ngăn cản họ tìm hiểu về cơ thể và tính dục của chính họ, điều này đem lại quyền uy cho nam giới trong các mối quan hệ tình dục, vừa tước đi quyền tiếp cận của phụ nữ với các phương diện kiểm soát sinh sản, điều này cũng hình sự hóa các phương tiện chấm dứt thai kỳ an toàn. Ở đây đã gộp chung vấn đề phá thai kèm với sự xấu hổ và đổ lỗi đến nỗi phụ nữ bị cô lập và tuyệt vọng.

Những thực trạng ấy không chỉ xuất phát từ sự nghèo khó, mà còn từ cấu trúc xã hội phụ hệ, nơi quyền lực và tiếng nói của phụ nữ thường bị phủ nhận. Trong bối cảnh ấy, Murray không chỉ kêu gọi một sự quan tâm về mặt y tế, mà còn là một sự thay đổi tận gốc về văn hóa, xã hội và chính trị, để phụ nữ có thể thật sự làm chủ cuộc đời mình.

Bà cũng nhấn mạnh thêm rằng tầm quan trọng của dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe trong thời gian thai kỳ là đáng chú ý, khi mà tỷ lệ này không được đánh giá là cao và sự nguy hiểm tới tính mạng của những người phụ nữ này ngày càng nghiêm trọng, bên cạnh việc thiếu kiến thức về thai sản có thể ‘dẫn đến mức độ nhận thức thấp về các biến chứng có thể xảy ra của việc sinh con và tầm quan trọng của những người đỡ đẻ được đào tạo.’ (tr. 139)

Dinh dưỡng kém trong suốt cuộc đời dẫn đến thiếu máu ở một nửa số trường hợp mang thai trên toàn thế giới…Bên cạnh đó, bởi vì chỉ có khoảng một nửa số thai phụ ở các nước nghèo được chăm sóc tiền sản và trong khi sinh, các biến chứng và trường hợp nguy cơ có thể không được ghi nhận. Chưa đến 30% phụ nữ ở các nước nghèo được chăm sóc hậu sản, trái ngược với 90% phụ nữ ở các nước giàu hơn.

Một trong những giải pháp mà Murray đặc biệt đề cao là giáo dục. Bà tin rằng giáo dục – cả giáo dục phổ thông lẫn giáo dục về giới tính và sức khỏe sinh sản – chính là công cụ mạnh mẽ nhất để phá vỡ vòng luẩn quẩn của áp bức. Khi một cô gái được đi học, cơ hội kết hôn sớm giảm đi đáng kể, kiến thức về chăm sóc sức khỏe được nâng cao, và khả năng lựa chọn cho tương lai trở nên rộng mở hơn. Thực tế đã chứng minh rằng mỗi năm học thêm mà một bé gái được tiếp cận có thể giảm rõ rệt nguy cơ tử vong khi mang thai và sinh nở. Giáo dục, trong tầm nhìn của Murray, là một hình thức trao quyền, không chỉ cho từng cá nhân phụ nữ, mà còn cho cả cộng đồng, bởi nó tạo ra sự thay đổi bền vững qua nhiều thế hệ.

Tựa đề cuốn sách hàm chứa một thông điệp quan trọng: sự phẫn nộ trước bất công là điểm khởi đầu của cuộc hành trình đi tìm lại công bằng, nhưng điều quyết định chính là lòng can đảm để hành động. Murray không dừng lại ở việc kể lại những câu chuyện thương tâm về tử vong ở các bà mẹ hay những cuộc hôn nhân ép buộc; bà thúc giục người đọc và người nghe phải biến sự xót xa ấy thành hành động cụ thể, thành lời nói cụ thể. Điều này có thể là tham gia vào các tổ chức xã hội, vận động cho chính sách y tế công bằng hơn, ủng hộ tài chính cho các chương trình chăm sóc phụ nữ, hoặc đơn giản là chia sẻ kiến thức và khuyến khích sự đối thoại trong cộng đồng.

Điều đáng chú ý trong cách Murray tiếp cận chủ đề này là bà luôn nhìn nó trong tính chất toàn cầu, nhưng đồng thời gắn bó với trách nhiệm của từng cá nhân trong xã hội. Sức khỏe sinh sản không chỉ là vấn đề “của phụ nữ ở những nước nghèo đói hay kém phát triển”, mà là một tấm gương phản chiếu công lý xã hội của toàn nhân loại. Một xã hội không thể gọi là công bằng khi một nửa dân số bị tước đi quyền quyết định về cơ thể và cuộc sống của chính mình. Bởi vậy, việc quan tâm, lên tiếng và hành động vì sức khỏe sinh sản của phụ nữ cũng chính là cách khẳng định phẩm giá và nhân quyền cho tất cả mọi người.

Một cuốn sách về phụ nữ không chỉ để đọc, mà còn là một cuốn sách cần đọc đi đọc lại, hay còn là một kêu gọi sự thức tỉnh của toàn nhân loại. Nhắc nhở rằng phẫn nộ trước những bất công là điều tự nhiên và cần thiết cho mỗi cá nhân, nhưng chỉ khi biến sự phẫn nộ thành dũng khí để hành động, chúng ta mới có thể tạo nên sự thay đổi thực sự. Sức khỏe sinh sản, trong nhãn quan của Murray, là trung tâm của công lý giới và công lý xã hội. Bảo vệ và thúc đẩy nó không chỉ cứu sống hàng triệu phụ nữ, mà còn mở đường cho một thế giới bình đẳng, nhân văn và bền vững hơn.

Vậy thì những lí do gì khiến bạn nên đọc cuốn sách về bình đẳng giới, về sức khỏe sinh sản của phụ nữ này:

  • Vì có những sự thật cần được lắng nghe: Bạn sẽ khám phá những câu chuyện có thật về những người phụ nữ bị áp bức, nhưng cũng kiên cường tìm ra lối thoát cho chính mình.
  • Vì kiến thức là nguồn lực, là sức mạnh giúp đương đầu với mọi bất công: Cuốn sách giúp bạn hiểu rõ hơn về hệ thống bất công hay bất bình đẳng đang duy trì sự yếu thế của phụ nữ và tác động của nó lên các xã hội đầy rẫy những tính bất công ở những quốc gia nghèo.
  • Vì hành động tạo nên sự thay đổi: Không những tập trung phân tích vấn đề, tác giả còn chỉ ra những con đường dẫn đến sự thay đổi – từ những phong trào xã hội đến những hành động nhỏ mà ai cũng có thể góp phần thay đổi những điều đó.

Thông tin về Anne Firth Murray:

Anne Firth Murray, một người New Zealand, được đào tạo tại Đại học California và Đại học New York về kinh tế, khoa học chính trị và hành chính công, với trọng tâm là chính sách y tế quốc tế và sức khỏe sinh sản của phụ nữ. Bà từng làm việc tại Liên Hợp Quốc với vai trò tác giả, giảng dạy tại Hồng Kông và Singapore, và dành nhiều năm làm biên tập viên cho các nhà xuất bản Đại học Oxford, Stanford và Yale. Trong suốt 25 năm qua, bà làm việc trong lĩnh vực từ thiện, đảm nhận vai trò cố vấn cho nhiều quỹ. Từ năm 1978 đến cuối năm 1987, bà phụ trách các chương trình về môi trường và dân số quốc tế của Quỹ Hewlett tại California.

Bà là Chủ tịch sáng lập của Quỹ Toàn cầu vì Phụ nữ (The Global Fund for Women), một tổ chức cung cấp tài trợ trên phạm vi quốc tế nhằm khởi xướng, củng cố và kết nối các nhóm hoạt động vì phúc lợi của phụ nữ. Hiện tại, bà là một học giả và nhà hoạt động tại Union Institute, đồng thời là Giáo sư tư vấn ngành Sinh học Con người tại Đại học Stanford. Anne cũng tham gia trong nhiều hội đồng và ban quản trị của các tổ chức phi lợi nhuận, bao gồm Quỹ Phát triển Phụ nữ Châu Phi (African Women’s Development Fund), Commonweal, Trung tâm Công lý Toàn cầu (Global Justice Center – Chủ tịch), GRACE (một nhóm làm việc về HIV/AIDS tại Đông Phi), Quỹ Hesperian và UNNITI (một quỹ phụ nữ tại Ấn Độ).

Bà đã nhận được nhiều giải thưởng và vinh danh vì những đóng góp trong lĩnh vực sức khỏe phụ nữ và hoạt động từ thiện, và vào năm 2005, bà được đề cử như một trong số 1.000 phụ nữ cho Giải Nobel Hòa bình. Cuốn sách của bà Paradigm Found: Leading and Managing for Positive Change hiện có mặt rộng rãi trên toàn thế giới tại các hiệu sách hoặc từ New World Library. Cuốn sách về sức khỏe phụ nữ quốc tế của bà, From Outrage to Courage: Women Taking Action for Health and Justice (tựa tiếng Việt: TỪ PHẪN NỘ TỚI CAN ĐẢM – Tình trạng bất bình đẳng và thiếu lành mạnh đối với phụ nữ ở những quốc gia nghèo và cách họ hành động), với lời tựa của Paul Farmer, cũng đã được xuất bản trên toàn cầu và có thể tìm mua tại các hiệu sách hoặc từ Common Courage Press.

Lam Hoàng

Để trở thành người phụ nữ đích thực

Trong xã hội Việt Nam hiện nay dường như đã có sự chia phe của hai kiểu mẫu phụ nữ:  kiểu mẫu “người mẹ” và kiểu mẫu “người tình”. Hai phe này thậm chí còn luôn chê trách, dè bỉu lối sống của nhau. Cách phân chia như vậy hình thành từ rất lâu đời, không phải chỉ ở Việt Nam mà còn ở trên thế giới, rồi sau đó,  được nhà phân tâm học Carl Jung “chỉ mặt đặt tên” trong các nghiên cứu

Hôn nhân, ngoại tộc và kiến tạo : người phụ nữ ở Bản Văng Môn

Trong quá trình tồn tại và phát triển cũng như thực hiện quy tắc ngoại tộc hôn, người Ơ Đu chủ yếu xây dựng mối quan hệ hôn nhân với các cộng đồng khác. Trong đó, phổ biến nhất là quan hệ hôn nhân với người Thái và người Khơ Mú – các cộng đồng sinh sống gần gũi với người Ơ Đu. Phụ nữ Ơ Đu chủ yếu kết hôn với đàn ông Khơ Mú và Thái. Còn đàn ông Ơ Đu thì ngược

Một ngày của Mế – theo chân một người phụ nữ Thái lên nương

Hãy theo chân một người phụ nữ Thái lên nương. Chỉ một ngày thôi, người ta sẽ có được bức tranh vẽ nên cả những kiếp người. Người Thái có câu ngạn ngữ đại ý rằng người vợ là vía của gia đình. Khi đã xong lễ tơ hồng trong ngày cưới thì vía của vợ gắn với chồng. Từ đó thành người đàn bà, thuộc về nhà chồng. Nhưng ngày nay thật khó nhận ra một phụ nữ Thái khi ra chốn đô hội,

Hữu Vi

16/10/2024

“Those were the days” – Lời tuyên ngôn của kẻ say mê

“Those were the days” là ca khúc tiếng Anh đầu tiên tôi được nghe khi mới học lớp 6. Ở độ tuổi mới lớn, phải đối mặt với các bài kiểm tra ngặt nghèo của “trường chuyên lớp chọn”, bắt gặp ca khúc này qua băng cassette mà bố tôi lâu lắm rồi không nghe đến. Tôi lập tức bị cuốn hút bởi giai điệu tưởng chừng rất vui tươi nhưng lại ẩn chứa đầy tâm trạng của ca khúc này, nhưng vì không có

“Triết học cho con gái” hay triết học của “cơi đựng trầu”

“Đàn ông nông nổi giếng khơi Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” Cặp ca dao Việt Nam này thường được dùng  để mỉa mai phụ nữ, ý muốn ám chỉ rằng phụ nữ dẫu có sâu sắc đến mấy cũng nông chư chiếc cơi đựng trầu, không thể sánh với đàn ông, dẫu có nông nổi mấy thì cũng có ý nghĩa thâm sâu. Thực ra, cặp ca dao này có thể được hiểu theo một nghĩa khác nếu ta mở rộng tầm