Home Chuyên đề tháng Hệ tư tưởng cấp tiến về giáo dục tại gia: hành trình của John Holt từ phê phán trường học tới biện hộ cho giáo dục tại gia

Hệ tư tưởng cấp tiến về giáo dục tại gia: hành trình của John Holt từ phê phán trường học tới biện hộ cho giáo dục tại gia

Phong trào trường học tại gia hiện nay ở Hoa Kỳ nổi lên từ tình trạng bất ổn xã hội của những năm 1960 và 1970 và tiêu biểu cho sự bất mãn ngày càng tăng đối với tổ chức trường công lập của Hoa Kỳ và sự gia tăng nhu cầu về các lựa chọn giáo dục thay thế. Sự không hài lòng của phụ huynh đối với các trường học được thể hiện bằng nhiều hình thức, chẳng hạn như sự phản đối của những người cấp tiến đối với sự áp đặt thể chế, phản đối của người da trắng đối với việc xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc trong các trường học ở miền Nam, và phản ứng bảo thủ của Cơ đốc giáo đối với sự thế tục hóa ngày càng tăng của giáo dục công lập. Các nghiên cứu hiện có gợi ý rằng phong trào trường học tại gia phần lớn nổi lên như một hiện thân của cả cải cách triệt để từ cánh tả và Cơ đốc giáo bảo thủ.

Nghiên cứu này, dựa trên cách xử lý theo trình tự thời gian đối với các nguồn chính, đề cập đến nền tảng triết học của phong trào trường học tại gia từ truyền thống của cánh tả cấp tiến, bằng cách xem xét các tác phẩm của John Holt, người có lẽ có ảnh hưởng nhất trong cung cấp nền tảng trí tuệ cho nhóm cấp tiến của phong trào. Cuộc thảo luận này sẽ giúp chúng ta phần nào hiểu được sự bất mãn lớn hơn đối với giáo dục công lập ở Mỹ và sự suy yếu của lý tưởng trường công vốn đã mê hoặc tâm trí người Mỹ trong hơn một thế kỷ. Cụ thể, công việc này cho chúng ta một bức tranh hoàn chỉnh hơn về một yếu tố bất đồng trong giáo dục ở Mỹ và lý do tại sao ngày càng nhiều trẻ em Mỹ ở nhà để học.

John Holt và Sự xuất hiện của một hệ tư tưởng cấp tiến cho các trường học tại gia

John Caldwell Holt (1923-1985), con cả trong một gia đình giàu có ở New England có ba người con, lớn lên ở Thành phố New York và Connecticut. Holt đã học tiểu học tại các trường tư thục ở Thành phố New York và Thụy Sĩ, sau đó là trung học tại Học viện Phillips Exeter danh tiếng, nơi ông tốt nghiệp ở độ tuổi trẻ nhất. Sau đó, Holt đăng ký vào trường kỹ thuật của Đại học Yale[1] và sau khi tốt nghiệp năm 1943, mong muốn trở thành nhà vật lý, nhưng trước tiên nhận được nhiệm vụ sĩ quan trên tàu ngầm Barbero trong những năm cuối của Thế chiến thứ hai (nguồn Allen, 1981; phỏng vấn Farenga, ngày 20 tháng 10 năm 1994).

Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945, Holt bị thuyết phục rằng thả bom nguyên tử khiến nền văn minh đang gặp nguy hiểm, và ông đến làm việc cho chi nhánh Bang New York của United World Federalists, một tổ chức tham gia vào phong trào Chính phủ Thế giới. Năm 1952, cảm thấy nhiệm vụ buồn chán và thiếu thử thách, ông rời tổ chức để đi du lịch một năm ở châu Âu (Allen, 1981; Sheffer, 1990)).

Khi trở lại Hoa Kỳ, Holt tìm kiếm công việc có ý nghĩa và cân nhắc việc làm nông. Em gái của ông, sống ở Santa Fe, New Mexico, đã nhận thấy sự tương tác tích cực của Holt với các con của mình và khuyến khích anh trai bà cân nhắc việc dạy học. Holt phản đối ý tưởng này cho đến khi bà đề xuất Trường Rocky Mountain, một trường nội trú thử nghiệm ở Carbondale, Colorado (gần Aspen), nơi các giảng viên và học sinh tự trồng trọt và giúp duy trì trường học. Holt lý luận, ngay cả khi việc dạy học có vẻ khó chịu, thì ít nhất ông cũng có thể học cách làm nông. Bởi vì trường không có khoa mở chính thức, Holt đã làm việc và quan sát để đổi lấy tiền ăn ở, cuối cùng đảm nhận vị trí dạy toán, tiếng Anh và tiếng Pháp lớp năm và phát triển niềm đam mê của ông đối với chủ đề quá trình học tập. Sau bốn năm, Holt, ở tuổi 34, rời Carbondale đến Boston, nơi ông tiếp tục trải nghiệm giảng dạy của mình tại một loạt trường—Trường Shady Hill,[2] Trường Lesley-Ellis, và cuối cùng là Trường Commonwealth. Ông đã bị sa thải khỏi cả ba vị trí vì, trong số những lý do khác, ông khăng khăng rằng kiểm tra có ảnh hưởng bất lợi đến việc học (Sheffer, 1990). Holt giải thích: “Trường học luôn là phương tiện để tôi đạt được mục đích. Tôi đã phải làm việc trong các trường học để trả lời các câu hỏi của tôi về học tập và trí thông minh của trẻ em. Nhưng tôi chưa bao giờ tự nhận mình là một giáo viên” (Allen, 1981, trang 6). Mặc dù say mê làm việc với trẻ con, nhưng Holt cũng chưa bao giờ xác định được vai trò làm cha mẹ, ông vẫn sống độc thân trong suốt cuộc đời (Allen, 1981).

Bài nói chuyện của Hà Thủy Nguyên về tư tưởng giáo dục của John Holt

Holt lần đầu tiên được cả nước chú ý với tư cách là một nhà phê bình giáo dục với việc xuất bản cuốn How Children Fail (tức “Trẻ em khó học thế nào”, Book Hunter xuất bản, 2022) vào năm 1964, một cuốn sách giúp mở ra phong trào cải cách trường học cấp tiến bắt đầu từ giữa những năm 1960. Ông viết cuốn sách dựa trên các bản ghi nhớ và thư gửi cho một đồng nghiệp giảng dạy được viết từ tháng 2 năm 1958 đến tháng 6 năm 1961 về kinh nghiệm giảng dạy của ông ở Carbondale và Boston. Chủ đề chính của Holt là quá trình học tập và niềm tin của ông rằng hầu hết môi trường trường học cản trở việc học tập thực sự. Holt nhấn mạnh rằng phần lớn trẻ em Mỹ thất bại ở trường theo nghĩa là “các em đều không phát triển được một phần nhỏ trong khối năng lực học hỏi, hiểu biết và sáng tạo to lớn, vốn có sẵn khi trẻ em vừa sinh ra và được khai thác đủ đầy trong hai hay ba năm đầu đời” (Holt, 1964, Trẻ em khó học thế nào, trang 17). Ông cho rằng thất bại quy mô lớn này là do hệ thống giáo dục chỉ tập trung vào việc phổ biến một lượng thông tin cố định và nghi ngờ sự quan tâm của trẻ em. Do đó, khi bị giáo viên và quản lý thao túng, đến lượt trẻ em trở thành những kẻ thao túng hệ thống để đối phó với nỗi sợ hãi, buồn chán và bối rối được thúc đẩy bởi quá trình giáo dục không phù hợp với nhu cầu của chúng. Holt đã viết rằng trẻ em “sợ thất bại, sợ làm thất vọng hay mất lòng những người lớn đang lo lắng xung quanh mình, những người lớn âu lo với hy vọng và kỳ vọng vô hạn cứ như đám mây lơ lửng trên đầu bọn trẻ. (Trẻ em khó học thế nào, trang 17). Cụ thể, Holt phản đối chương trình giảng dạy bắt buộc đối với học sinh mà ông cho là không liên quan đến cuộc sống của chúng mà chỉ ngày càng hướng đến mục tiêu đơn thuần là cải thiện điểm số trong các bài kiểm tra thành tích tiêu chuẩn. Ông đặc biệt băn khoăn với ba giả định giáo dục “nhảm nhí và có hại” (Trẻ em khó học thế nào, trang 403)—thứ nhất, rằng có một khối kiến thức thiết yếu mà mọi người nên biết; thứ hai, trình độ học vấn của một người nên được xác định bởi mức độ kiến thức mà người đó đã nắm vững; và thứ ba, nhiệm vụ của trường học là truyền đạt cho học sinh càng nhiều kiến thức thiết yếu này càng tốt. Tuy nhiên, Trẻ em khó học thế nào không chỉ chỉ trích nền giáo dục Mỹ mà còn đưa ra một giải pháp chung cho việc cải cách trường học. Tầm nhìn của Holt là kêu gọi các trường học và lớp học cung cấp cho trẻ em một “nơi tuyệt vời tập hợp đa dạng các hoạt động” như tiệc buffet smorgasbord (Trẻ em khó học thế nào, trang 413) mà mỗi đứa trẻ có thể theo đuổi theo cách riêng của mình dựa trên sở thích của chúng, với việc giáo viên chỉ đưa ra hướng dẫn khi học sinh yêu cầu (Holt, 1964).

Phản ứng của cộng đồng giáo dục và học thuật đối với Trẻ em khó học thế nào khá mâu thuẫn và chứa đựng nhiều chỉ trích gay gắt (Featherstone, 1968; Hentoff, 1965; Gross, 1965; MacCampbell, 1964), nhưng điều này không cản trở việc Holt đột ngột bắt đầu bước vào vai trò diễn giả của công chúng. Trong khi trở thành một giảng viên nổi tiếng, ông cũng tiếp tục đến thăm các trường học và bắt đầu xây dựng mạng lưới những nhà cải cách có cùng chí hướng thông qua các cuộc gặp gỡ và trao đổi thư từ cá nhân. Sau đó, vào năm 1968, Holt viết cho một cựu sinh viên, “Tôi gặp rất nhiều người trong ngành giáo dục, những người dường như đang suy nghĩ rất giống tôi, hoặc ít nhất là dường như sẵn sàng bắt đầu suy nghĩ theo cách đó” (Sheffer , 1990, tr 37). Nhóm bạn mới quen này bao gồm nhà cải cách người Anh A. S. Neill (Summerhill) và người Mỹ George Dennison (The Lives of Children), Felix Greene, và James Herndon (The Way It Spozed to Be) (Sheffer, 1990).

Trẻ em học khó thế nào

Năm 1967, ba năm sau khi xuất bản cuốn Trẻ em khó học thế nào, Holt đã viết phần tiếp theo, How Children Learn (tức Trẻ em học như thế nào, Book Hunter xuất bản, 2022), trong đó ông chuyển từ những ví dụ tiêu cực được đưa ra trong cuốn đầu tiên sang những ví dụ mô tả về việc trẻ em tự mình trải qua những trải nghiệm học tập tích cực. Sử dụng các quan sát về hầu hết trẻ mẫu giáo trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 1960 đến tháng 6 năm 1965, Holt đã mô tả nhiều phong cách học tập khác nhau và giải thích cách thử nghiệm bản năng của trẻ dẫn đến việc học. Mục đích của Holt có hai phần: thứ nhất, tranh luận về phẩm giá của trẻ em và thứ hai, khẳng định rằng chúng có thiên hướng tự nhiên đáng kinh ngạc là tự học. Holt lập luận rằng thay vì áp đặt các chiến lược giảng dạy có sẵn cho trẻ em, người lớn nên tìm cách “hiểu rõ hơn các cách thức, các điều kiện, và tinh thần thúc đẩy trẻ em học tốt nhất, và khi có thể biến trường học thành nơi trẻ em có thể dùng và cải thiện cách tư duy và học hỏi tự nhiên của chúng, thì ta mới có khả năng ngăn chặn được sự thất bại ấy.” (Holt, Trẻ em học như thế nào, trang 17). Holt tin rằng, con người về bản chất là một động vật học tập. Chim bay, cá bơi, con người suy nghĩ và học hỏi. Vì vậy, chúng ta không cần phải “thúc đẩy” trẻ học tập. … Điều chúng ta cần làm, và tất cả chúng ta cần làm, là đưa nhiều điều trong thế giới nhất có thể vào trường lớp; là trao cho trẻ em sự giúp đỡ và hướng dẫn như chúng cần và yêu cầu; là lắng nghe cách tôn trọng khi các em thấy như muốn nói gì đó; và là tránh sang một bên. Chúng ta có thể tin rằng các em sẽ tự làm phần còn lại. (Holt, Trẻ em học như thế nào, trang 425)

Bằng cách nhấn mạnh rằng trẻ em vốn đã tốt, tò mò và phát triển tích cực hơn tách khỏi những nhân tố quyền lực chi phối, Holt đã đặt mình vào truyền thống Lãng mạn của Rousseau, Tolstoy, Dewey và A. S. Neill. Một người bạn của Holt sau đó gợi ý rằng không phải Holt đã bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ của những người đi trước, mà thông qua quan sát độc lập, ông đã đưa ra kết luận tương tự (Sheffer, 1990).

Với Trẻ em học như thế nào, Holt đã củng cố vị trí lãnh đạo của mình trong số những người kêu gọi cải cách triệt để trường học, một nhóm bao gồm Herbert Kohl, Jonathan Kozol và Edgar Friedenberg, trong số những người khác. Nhưng trong khi giành được sự ngưỡng mộ của những “nhà phê bình lãng mạn” đồng nghiệp (Sheffer, 1990, p. 3), như đôi khi họ vẫn được gọi, ông vẫn tiếp tục công kích không ít người trong cơ sở giáo dục.[3] Bất chấp những lời chỉ trích đôi khi gay gắt, sự nổi tiếng của Trẻ em khó học thế nàoTrẻ em học như thế nào đã đưa Holt lên tầm cỡ quốc gia với tư cách là người ủng hộ cải cách trường học. Do đó, sự nổi tiếng của ông với tư cách là một giảng viên ngày càng tăng cao [4] và ông trở thành cộng tác viên thường xuyên cho các tạp chí, viết bài và điểm sách cho các ấn phẩm như New York Review và Life (Stevens, 1970).

tre-em-hoc-nhu-the-nao

Cuốn sách thứ ba của Holt, The Underachieving School (1969) (tức Trường học kém thành tích, Book Hunter xuất bản 2023), là tuyển tập một số tác phẩm ngắn hơn của ông đã xuất hiện trên Today’s Education, Harper’s, Life, New York Times Magazine, Redbook, The PTA Magazine, và các ấn phẩm khác. Trong khi Holt đảm nhận vai trò quan sát chủ đạo trong cuốn Trẻ em khó học thế nào Trẻ em học như thế nào, ông chủ yếu trở thành người ủng hộ trong tác phẩm này. Trong đó, Holt chỉ trích các phương pháp giáo dục kiểm tra, chấm điểm, chương trình giảng dạy cố định và phân nhóm khả năng là có hại cho trẻ em. Ông cũng trích dẫn áp lực to lớn đối với học sinh khi theo học đại học, sự phổ biến của giáo viên nói quá nhiều và sự thất bại của các trường nội đô thị trong việc giáo dục học sinh. Do đó, Holt lập luận, vì trường học đầy rẫy những thực hành có hại, trẻ em không nên bị ép buộc phải tham gia các hoạt động đó. Holt đồng ý với nhà cải cách cấp tiến người Anh A. S. Neill, người mà ông đã đến thăm Summerhill hai lần vào cuối những năm 1960, rằng mục đích chính của giáo dục phải là tạo ra những con người hạnh phúc. Holt tin rằng quyết định tốt nhất mà các trường học ở Mỹ có thể đưa ra là… để mọi đứa trẻ trở thành người lên kế hoạch, giám đốc và đánh giá giáo dục của chính nó, cho phép và khuyến khích nó, bằng sự truyền cảm hứng và chỉ dẫn từ những người chuyên gia và giàu kinh nghiệm hơn, cùng với sự giúp đỡ nhiều nhất có thể trong phạm vi yêu cầu từ đứa trẻ, quyết định nó học cái gì và khi nào thì học. Trẻ học theo cách nào và thành thạo ở mức nào. Đó là biến trường học của chúng ta, thay vì như tình trạng hiện tại, chỉ là nơi nhốt lũ trẻ, mà trở thành một nguồn lực cho học tập độc lập và tự do, mà mọi người trong cộng đồng, dù ở độ tuổi nào, cũng có thể sử dụng nhiều hay ít tùy theo ý nguyện. (Holt, 1969, Trường học kém thành tích, trang 7)

Vào thời điểm cuốn sách thứ tư của Holt, What Do I Do Monday?, được xuất bản năm 1970, ông được nhiều người coi là phát ngôn viên chính của phong trào cải cách trường học triệt để. Holt và những người khác trong phong trào, chẳng hạn như Herbert Kohl (The Open Classroom) và George Dennison (The Lives of Children) đã bắt đầu với tư cách là những nhà phê bình gay gắt đối với nền giáo dục Hoa Kỳ, nhưng sau đó đã chuyển sang vị trí đưa ra những đề xuất cụ thể để giúp trường học “cởi mở hơn”, nhạy cảm hơn, nhạy bén hơn, cá nhân hơn, [và] linh hoạt hơn” (Stevens, 1970). Với What Do I Do Monday?, Holt bước vào lĩnh vực cung cấp thông tin “cách thực hiện” thiết thực cho giáo viên để cải thiện việc giảng dạy trên lớp về toán, khoa học, ngôn ngữ và các môn học khác. Ví dụ, ông mô tả một số nhiệm vụ thể chất mà trẻ em có thể thực hiện trong khi học cách đo tốc độ và sức mạnh. Thông qua những chiến lược giảng dạy này và các chiến lược giảng dạy khác, Holt đã cố gắng kết hợp công việc và vui chơi và chứng minh trẻ em có thể hưởng lợi như thế nào khi tham gia tích cực vào quá trình học tập (Holt, 1970). Cuốn sách Growing Up Absurd của Paul Goodman đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của Holt về công việc có ý nghĩa và tầm quan trọng của việc không phân biệt giữa công việc và vui chơi (Sheffer, 1990).

Đầu năm 1970, Holt thực hiện chuyến thăm đầu tiên đến Trung tâm Tài liệu Liên văn hóa (CIDOC) của Ivan Illich ở Cuernavaca, Mexico. Illich, một cựu linh mục Công giáo, đã sống và làm việc ở Puerto Rico và các nước Mỹ Latinh nghèo khác và đã đi đến kết luận rằng các trường học ở các quốc gia này không phục vụ mục đích nào ngoài việc giữ chân những người giàu có quyền lực và tầng lớp thấp hơn trong sự ngu dốt và nghèo đói. Sau đó, Illich bắt đầu quan tâm đến cải cách giáo dục ở các nước thịnh vượng. Tại CIDOC, Illich và các đồng nghiệp của ông đã thảo luận về các thể chế hiện đại, đặc biệt là trường học, và tổ chức các cuộc hội thảo về khái niệm “deschooling” (bãi bỏ trường học) của Illich. Illich lập luận rằng phong trào cải cách trường học đã sai lầm trong nỗ lực cải thiện trường học và thay vào đó đề xuất rằng nên bãi bỏ trường học và quan niệm về trường học. Khi nói đến “trường học”, Illich muốn nói đến ý tưởng coi giáo dục như một loại hàng hóa được mua lại, phân phối (thường là không đồng đều) và được sử dụng để kiểm soát khả năng tiếp cận việc làm, kỹ năng và kiến thức. Trên thực tế, Illich tin rằng, các trường học hiện đại là phương tiện chính để duy trì sự phân biệt giai cấp xã hội; ông đã hình dung ra một xã hội không có chúng. Holt bị ảnh hưởng sâu sắc bởi công việc của Illich và đã viết: “Chuyến thăm ngắn ngày của tôi tới CIDOC đã khiến tôi cảm thấy mạnh mẽ hơn nhiều so với trước đây rằng hệ thống giáo dục trên toàn thế giới của chúng ta có hại hơn nhiều, đồng thời có mối liên hệ sâu sắc và toàn diện hơn với nhiều tệ nạn lớn khác của thời đại chúng ta, hơn là tôi tưởng” (Sheffer, 1990). Holt coi một trong những tệ nạn đó là chiến tranh, đặc biệt là sự tham gia của Mỹ vào Việt Nam, và phản đối điều đó thông qua tư cách thành viên trong các tổ chức hòa bình, tạm thời từ chối nộp thuế liên bang và hỗ trợ tích cực cho chiến dịch tranh cử tổng thống của George McGovern chống lại Richard Nixon. Ông ấy cũng coi chủ nghĩa đề cao chứng chỉ giáo dục Mỹ là một thứ tồi tệ và khuyên các sinh viên đại học nên từ bỏ bằng cấp. Holt xem Illich như một nhà tiên tri và bản thân mình là một nhà chiến thuật có khả năng biến tầm nhìn của Illich thành hiện thực (Sheffer, 1990).

Vì vậy, đến năm 1971, Holt, cùng với Illich, đã kết luận rằng bất chấp gần một thập kỷ nói chuyện trong giới giáo dục về cải cách, các trường học ở Mỹ đã thay đổi rất ít và dường như có rất ít hy vọng rằng sẽ có sự cải thiện đáng kể. Holt sau đó đã than thở:

“Giáo viên không dũng cảm để thay đổi cho lắm. Tôi từng nghĩ 75% giáo viên mà tôi gặp là đồng minh… Bây giờ tôi nghĩ rằng chỉ khoảng hai hoặc một phần trăm…Tôi phát hiện ra rằng tôi không thể nói chuyện với giáo viên về bất kỳ loại thay đổi nào, dù rất nhỏ…mà họ lại không nói: “Tại sao ông lại chỉ trích chúng tôi?” Họ tin rằng mọi việc họ đang làm là đúng và bất cứ điều gì sai trái không phải là lỗi của họ. Họ bị phong kín với bất kỳ thay đổi nào.” (Allen, 1981, tr.7)

Trong Freedom and Beyond (1971), Holt, từ bỏ cải cách trường học, chuyển trọng tâm của mình từ giáo dục trong lớp học sang giáo dục toàn xã hội. Ông lặp lại lời kêu gọi của Ivan Illich về việc “xóa bỏ trường học” của xã hội Hoa Kỳ và hình thành một trật tự giáo dục mới trong đó “không ai bị bắt buộc phải đi học” và “trong đó [sẽ có] nhiều con đường để học tập và tiến bộ, thay vì một con đường đến trường như chúng ta hiện nay—một con đường quá hẹp cho tất cả mọi người, và một con đường quá dễ dàng và quá thường xuyên để cản trở người nghèo” (Holt, 1971). Là những lựa chọn thay thế cho các trường công lập chính thức, có tổ chức, Holt chỉ ra các trường mở và trường miễn phí mới nổi[5] và đưa ra giả thuyết về việc hình thành các trung tâm học tập cộng đồng dành cho mọi lứa tuổi và phục vụ nhu cầu và lợi ích cá nhân. Theo Holt, chỉ bằng cách này, trẻ em mới có thể thoát khỏi sự xuống cấp của giáo dục bắt buộc và bắt đầu thực hiện quyền tự do lựa chọn của mình để theo đuổi một nền giáo dục có ý nghĩa dựa trên sự tò mò của chính chúng (Holt, 1971).

Freedom and Beyond nhận được cả sự khen ngợi và nghi ngờ từ các nhà phê bình.[6] Những mô tả của Holt về trẻ em trong các tình huống học tập tiếp tục thu hút độc giả, trong khi các phương án giáo dục thay thế được đề xuất của ông dành cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đã thu hút được sự quan tâm và khen ngợi đáng kể từ nhà cải cách đồng nghiệp Nat Hentoff (1972). Tuy nhiên, Hentoff tiếp tục gợi ý rằng Holt “chưa suy nghĩ đủ kỹ để có thể chỉ ra cách . . . các nhu cầu của cá nhân và cộng đồng sẽ được đáp ứng thông qua việc bãi bỏ trường học” (Hentoff, 1972, trang 64).

Holt đáp lại lời chỉ trích của Hentoff, không phải bằng cách tập trung vào vấn đề xóa bỏ trường học, mà bằng cách đề xuất định nghĩa lại chính thời thơ ấu. Quá trình “suy nghĩ kỹ lưỡng” của ông theo hướng này đã dẫn đến cuốn sách thứ sáu, Escape From Childhood, xuất bản năm 1974 (tức “Thoát khỏi tuổi thơ”, Book Hunter xuất bản, 2023). Holt có nguồn cảm hứng từ cuốn Growing Up Absurd (1960) của Paul Goodman và “The Open Truth and Fiery Vehemence of Youth,” của Peter Marin. 7] hai tác phẩm mà Holt nói, “những người đầu tiên nhen trong tôi ý nghĩ rằng tuổi thơ hiện đại có thể không phải là một ý tưởng hay.” (Holt, Thoát khỏi tuổi thơ). Holt cũng thừa nhận rằng ông đã “học được nhiều”  từ nhà sử học Philip Aries trong cuốn Centuries of Childhood (1962). Trong Thoát khỏi tuổi thơ, Holt tiếp tục lập luận trước đó của mình chống lại sự tách biệt giả tạo trong giáo dục cuộc sống với công việc, cho thấy rằng gia đình chỉ mới xuất hiện trong lịch sử và bản thân thời thơ ấu cuối thế kỷ 20 là một sự bịa đặt giả tạo của tầng lớp trung lưu. Holt tuyên bố: “những người đầu tiên nhen trong tôi ý nghĩ tuổi thơ hiện đại có thể không phải là một ý tưởng hay.” Trên thực tế, Holt gợi ý, nhiều gia đình hiện đại chỉ đơn thuần là “[các] chế độ độc tài thu nhỏ” (trang 48) và giống như trường học, dạy trẻ em phục tùng quyền lực tuyệt đối. “Đó là huấn luyện để trở thành nô lệ,” Holt nói (trang 48). Nhưng Holt đủ tư cách tố cáo gia đình hiện đại:

“Tôi không khẳng định rằng người trẻ từng sống hạnh phúc hơn trước khi chúng ta phát minh ra tuổi thơ hiện đại, hoặc theo một vài cách nào đó nó đã không cải thiện cuộc sống cho một số trẻ, hoặc ngay cả hiện tại nó vẫn chẳng hề tốt cho bất cứ ai ở bất cứ đâu.”

> Đọc thêm:

Phỏng vấn John Holt về homeschooling: Ngôi nhà là cơ sở thích hợp cho việc khám phá thế giới mà chúng ta gọi là học tập hoặc giáo dục – Book Hunter

Con người cá nhân và con người công dân trong tư tưởng giáo dục của Aristotle và John Holt #1: Mối quan hệ giữa con người và nhà nước trong hoàn cảnh xã hội “ganh đua”  – Book Hunter

Tin tưởng vào trẻ em để hướng tới tương lai – Book Hunter

Thoát khỏi tuổi thơ đưa ra tình trạng rằng tuổi thơ hiện đại, mặc dù ban đầu nhằm mục đích bảo vệ trẻ em khỏi sự bóc lột của xã hội, nhưng thực tế đã hạ thấp đứa trẻ xuống vai trò “kẻ phiền phức, nô lệ, hoặc thú cưng đắt tiền” (trang 18, Thoát khỏi tuổi thơ). Holt lập luận rằng tuổi thơ kéo dài quá lâu và trẻ em nên bắt đầu bước vào cuộc sống trưởng thành sớm hơn nhiều. Do đó, Holt lập luận, cha mẹ nên sẵn sàng từ bỏ quyền đối với con cái của họ sớm hơn nhiều, vì trẻ em hoàn toàn có khả năng đảm nhận trách nhiệm của cuộc sống “người lớn” bất chấp những lầm tưởng phổ biến về vẻ đẹp và sự ngây thơ của thời thơ ấu. Holt lập luận ủng hộ việc bãi bỏ thể chế thời thơ ấu hiện đại, thứ mà ông coi là một nhà tù hơn là một khu vườn, bằng cách cung cấp cho bất kỳ đứa trẻ nào muốn, ở mọi lứa tuổi, tất cả “các quyền, đặc quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm” được hưởng của người lớn. Danh sách các quyền của Holt bao gồm quyền bầu cử, lao động kiếm tiền, sở hữu tài sản, quyền được giáo dục, đi lại, chọn người giám hộ, sử dụng ma túy, lái xe và tham gia vào hoạt động tình dục — nói chung, quyền làm “điều mà bất kỳ người trưởng thành nào cũng có thể làm một cách hợp pháp”.[8] Holt coi cuộc đấu tranh vì quyền trẻ em của mình, cùng với Phong trào Giải phóng Phụ nữ, là một phần của cuộc đấu tranh lớn hơn giữa kẻ có quyền lực và kẻ yếu thế trong xã hội Hoa Kỳ (Sheffer, 1990).

Phản ứng của các nhà phê bình đối với Thoát khỏi tuổi thơ có thể đoán trước được. Trong khi người ta thấy sự ủng hộ của Holt là “hấp dẫn”, “hợp lý” và “có sức thuyết phục đáng kinh ngạc” (Levine, 1974), Robert Nordberg (1974), một nhà giáo dục Công giáo và giáo sư giáo dục tại Đại học Marquette, đã trả lời một cách mỉa mai, “Rất chào mừng, chàng trai, đến với thế giới mới dũng cảm, nơi bạn có thu nhập đảm bảo. . . quan hệ tình dục với bất kỳ ai. . và giáo viên có thể không tạo gánh nặng cho bạn với bất cứ điều gì không phù hợp với sở thích của bạn. Bạn sẽ lớn lên thành một con quái vật vô đạo đức, ngu dốt. . .” (Nordberg, 1974).

Năm 1976, dường như không nản lòng trước những lời gièm pha, Holt đã viết  Instead of Education: Ways to Help People Do Things Better (tức “Thay vì giáo dục: Cách giúp mọi người làm việc tốt hơn”, Book Hunter xuất bản, 2023). Tác phẩm này nhắc lại mối quan hệ đồng minh của ông với những ý tưởng bãi bỏ trường học của Illich và quyết tâm của ông rằng không thể cải tổ thể chế trường học. Holt đã viết:

“Giáo dục, cùng với hệ thống ủng hộ nó là việc giáo dục bắt buộc và cạnh tranh ở trường, với mô hình thưởng phạt kiểu cà rốt và cây gậy, với điểm số, bằng cấp và chứng chỉ, giờ đây đối với tôi có lẽ là thứ phát minh độc đoán và nguy hiểm nhất trong mọi phát minh xã hội của nhân loại. Đó là nền tảng sâu xa nhất của tình trạng nô lệ hiện đại trên toàn thế giới, trong đó hầu hết mọi người đều thấy mình chẳng là ai khác ngoài là những nhà sản xuất, người tiêu dùng, khán giả và “người hâm mộ,” mà trong các giai đoạn cuộc sống, luôn bị thúc đẩy ngày càng nhiều hơn bởi lòng tham, sự đố kỵ và sợ hãi. Mối quan tâm của tôi không phải là cải thiện “giáo dục” mà là loại bỏ nó, là chấm dứt việc kinh doanh xấu xí và phản nhân văn trong việc định hình con người và để mọi người tự định hình chính mình.” (Holt, Thay vì giáo dục)

Holt nói, trường học không thất bại như ông nghĩ ban đầu, mà chúng đã hoàn thành chính xác những gì chúng đặt ra – đó là ngăn trẻ em thoát khỏi xã hội người lớn, dạy chúng phục tùng chính quyền, chấp nhận sự buồn chán và phân loại chúng thành người chiến thắng và kẻ thua cuộc thông qua phỏng đoán về những năm tháng trưởng thành của chúng. Vì vậy, Holt nhấn mạnh, bản chất của việc đi học bắt buộc nhất thiết phải loại bỏ sự hứa hẹn về việc học thực sự, đặc biệt là đối với người nghèo, bằng cách xây dựng một bức tường ngăn cách giữa cuộc sống và công việc. Trên thực tế, nếu xã hội Hoa Kỳ có thể hủy bỏ trường học, thì học sinh sẽ chịu trách nhiệm về việc học của chính mình và không còn phụ thuộc vào giáo viên nữa. Holt lập luận rằng điều này cũng sẽ có lợi cho giáo viên vì sau đó họ có thể tự do phát triển thẩm quyền tự nhiên xuất phát từ chuyên môn hơn là dựa vào thẩm quyền cưỡng chế phổ biến trong trường học. Nhưng mục đích của Holt không phải là gợi ý rằng các trường học hiện tại có thể được cải cách bằng cách thực hiện các chiến lược giảng dạy mới, thay vào đó, ông tìm cách đề xuất những cách mà trẻ em có thể học ngoài trường học, chẳng hạn như thông qua thư viện, trao đổi tài nguyên và thể hiện sự tò mò tự nhiên (Holt, 1976).

Ý tưởng về giáo dục diễn ra bên ngoài trường học đã là chủ đề chính trong các bài viết của Holt trong nhiều năm, cùng với việc ủng hộ quyền trẻ em của ông. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi ông bắt đầu tìm kiếm những bậc cha mẹ đang thực sự thực hiện bước dạy dỗ con cái của họ ngoài trường học. Mặc dù Holt vẫn còn nghi ngờ về thẩm quyền của cha mẹ, nhưng ông tin rằng ngôi nhà có khả năng mang lại cho trẻ quyền tự chủ cao hơn nhiều so với trường học (Phỏng vấn Farenga, ngày 20 tháng 10 năm 1994). Vào tháng 6 năm 1977, Holt viết cho một người quen, người sau này tham gia dạy học tại nhà: “Tôi thấy mình đang viết thư . . . cho một số người, một số lượng ngày càng tăng, nhiều người trong số họ hiện đang bắt đầu viết thư cho nhau, và đối với tôi, dường như một bản tin sẽ là một cách mà tất cả chúng ta có thể trao đổi ý tưởng và kinh nghiệm của mình. Tôi khá hào hứng với điều này, có rất nhiều ý tưởng để đưa vào đó, tôi nghĩ rằng nó có thể hữu ích cho nhiều người” (Sheffer, 1990, p. 199). Ấn phẩm Growing Without Schooling (GWS), một bản tin hai tháng một lần, ra đời từ ý tưởng này và trở thành trọng tâm công việc của Holt từ năm 1977 cho đến khi ông qua đời vào năm 1985. Mục tiêu đã nêu của GWS là giúp các cá nhân tìm ra các lựa chọn thay thế cho trường học, và do đó đại diện cho một trong những đóng góp của Holt với những gì ông cảm thấy sẽ thay đổi xã hội lâu dài và hiện thực hóa tầm nhìn về một xã hội “không trường học” của Illich. GWS bao gồm các câu chuyện, tin tức và thông tin về phụ huynh và con cái của họ, những người tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục bên ngoài trường học. Nó cũng cung cấp tin tức về phong trào học tại nhà, danh sách bạn bè qua thư, thư mục gia đình học tại nhà, đánh giá các tài nguyên được đề xuất và đối thoại liên tục giữa các độc giả về các vấn đề phổ biến mà các nhà giáo dục tại nhà phải đối mặt (GWS, 1977; Sheffer, 1990). Holt nói với độc giả của mình trong số đầu tiên: “Khi bắt đầu bản tin này, chúng tôi đang đưa vào thực hành một lý thuyết về thay đổi xã hội, đó là sự thay đổi xã hội quan trọng và lâu dài luôn diễn ra từ từ và chỉ khi mọi người thay đổi cuộc sống của họ chứ không phải chỉ niềm tin chính trị của họ. . .” (GWS, 1977, tr.1). 

Cùng với bản tin, Holt đã bắt đầu một danh mục đặt hàng qua thư, “Cửa hàng sách và nhạc của John Holt,” [9] giới thiệu những cuốn sách của chính ông và những cuốn sách khác mà ông giới thiệu. Đồng thời, ông trở nên thân thiết với nhiều gia đình học tại nhà thông qua thư từ và các chuyến thăm cá nhân (Sheffer, 1990).

Việc các bậc cha mẹ sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm học tại nhà của họ trong Growing Without Schooling đã mang lại cho Holt nguồn cảm hứng và tư liệu thô cho cuốn sách hoàn chỉnh cuối cùng của ông trước khi ông qua đời vào năm 1985, có tựa đề Teach Your Own: A Hopeful Path For Education (1981). Tin chắc rằng trẻ em sinh ra là để học và trường học cản trở quá trình này, Holt chỉ đơn giản gợi ý rằng các bậc cha mẹ nên tránh trường học hoàn toàn bằng cách cho con cái họ nghỉ học và cung cấp giáo dục thay thế tại nhà. Tiêu đề, dành cho phụ huynh, cho thấy Holt miễn cưỡng trao quyền tự chủ hoàn toàn, ngay lập tức cho trẻ em, nhưng phản ánh niềm tin của ông rằng trẻ em phần lớn sẽ được tự do ở nhà hơn là ở trường. Holt bắt đầu tác phẩm này với lý luận đưa trẻ em thoát khỏi trường học, lặp lại những chỉ trích trước đây chống lại hệ thống giáo dục bắt buộc đồng thời đưa ra một thủ phạm mới, nhóm đồng đẳng. Ông nói, trong nhà, trẻ em có thể đạt được các kỹ năng sống và học tập cơ bản, không bị điểm số, cạnh tranh và “tính xấu, cạnh tranh, độc quyền, tìm kiếm địa vị, hợm hĩnh . . .”của  cộng đồng đồng đẳng phổ biến trong trường học (tr.45). Sau đó, ông giới thiệu thông qua những lời chứng thực tích cực đã xuất hiện trong Growing Without Schooling một số phụ huynh đang thực sự dạy học tại nhà. Thông điệp là ngay cả những bậc cha mẹ có trình độ học vấn hạn chế cũng có thể cung cấp cho con cái họ một môi trường học tập có lợi cho sự phát triển trí tuệ, tình cảm, đạo đức và xã hội. Holt sau đó giải quyết vấn đề rõ ràng là đối phó với chính quyền và luật bắt buộc đi học cùng với thách thức thực hiện chương trình giáo dục tại nhà. Tóm tắt các vụ kiện tại tòa án và các chiến lược pháp lý để lách luật bắt buộc đi học của tiểu bang, Holt kết luận rằng cha mẹ có quyền giáo dục tại nhà. Sau đó, tác giả đã thông báo cho những học sinh sẽ học tại nhà về các cách dạy ở nhà, từ các khóa học hàm thụ đến ý tưởng thiết kế chương trình giảng dạy của riêng họ (Holt, 1981).

Holt đã “bị chỉ trích mạnh mẽ” (phỏng vấn Farenga, ngày 20 tháng 10 năm 1994) từ các nhà hoạt động vì nữ quyền, những người cảm thấy rằng Teach Your Own đang gợi ý rằng họ nên từ bỏ tất cả những thành quả của Phong trào Phụ nữ và trở về nhà để dạy dỗ con cái của họ. Tuy nhiên, Holt không bận tâm đến sự phản đối của họ, khẳng định rằng giáo dục tại nhà không dành cho tất cả mọi người và nhiều phụ nữ tìm thấy sự tự do và thỏa mãn tuyệt vời khi ở nhà thay vì theo đuổi sự nghiệp (Phỏng vấn Farenga, ngày 20 tháng 10 năm 1994; Sheffer, 1990). Trong một bức thư gửi cho nhà hoạt động nữ quyền Gloria Steinem, Holt đã bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với phong trào, nhưng khuyến khích bà ấy thiết lập một cuộc đối thoại với phụ nữ, chẳng hạn như em gái của ông, người rất thích ở nhà. Ông viết: “Tôi nghĩ ‘Phong trào Giải phóng Phụ nữ’ có tầm quan trọng to lớn và tôi hy vọng nó phát triển và thành công. . . . [nhưng] tôi không nghĩ nó sẽ có nhiều cơ hội làm được điều đó trừ khi nó có thể . . . nói chuyện hiệu quả với một nhóm lớn phụ nữ [những người] không ngại thừa nhận mình là ‘bà nội trợ’” (Sheffer, 1990, trang 105).

Bất kể những lời chỉ trích về giáo dục tại nhà, Holt tin rằng “theo thời gian, phong trào học tại gia sẽ làm thay đổi trường học nhiều hơn bất cứ điều gì tôi từng làm khi tôi dành phần lớn thời gian nói chuyện với trường học. Chỉ khi có đủ số người bỏ phiếu bất tín nhiệm thì các trường mới bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về sự thay đổi” (Allen, 1981, trang 7). Holt qua đời vì bệnh ung thư vào tháng 9 năm 1985[10] và chưa bao giờ cảm nhận được ảnh hưởng của giáo dục tại nhà đối với các trường học mà ông đã dự đoán, và mức độ ảnh hưởng đầy đủ của ông đối với phong trào vẫn chưa rõ ràng.

Cuốn sách cuối cùng của John Hotl được xuất bản sau khi ông qua đời.

Đánh giá và kết luận

Cuộc đời và các tác phẩm của John Holt đặt ra một số câu hỏi cơ bản về trải nghiệm của con người mà các nhà triết học, thần học và giáo dục đã tranh luận trong nhiều thế kỷ. Mặc dù thời gian và không gian giới hạn khả năng của chúng ta trong việc theo đuổi những câu hỏi này một cách tổng thể hoặc chi tiết, nhưng sẽ rất hữu ích nếu xem xét ngắn gọn ít nhất ba vấn đề sau đây.

Thứ nhất, Trẻ em có thể đưa ra quyết định đúng đắn về giáo dục và các vấn đề khác trong cuộc sống mà không cần sự can thiệp đáng kể của người lớn không? Tất nhiên, câu hỏi này được bao bọc trong câu hỏi lớn hơn liên quan đến bản chất cố hữu của con người. Đó là, người ấy có xu hướng cư xử đúng đắn, trung thực, công bằng, v.v. một cách tự nhiên không? Hay con người có xu hướng tự nhiên hướng tới sự ích kỷ, phóng túng và thuận tiện về mặt đạo đức?[11] 

Như Pascal đã nói, con người là thiên thần hay con thú? Holt lập luận từ truyền thống Lãng mạn, có lẽ được minh họa rõ nhất bởi tác phẩm Emile của Rousseau, vốn thừa nhận lòng tốt bẩm sinh của trẻ em và những ảnh hưởng đồi bại của các thể chế người lớn đối với trẻ em. Holt đã kết luận sai rằng giá như chúng có thể được để yên, lòng tốt và sự tò mò của trẻ em sẽ dẫn đến những quyết định đúng đắn và cuối cùng tạo ra một xã hội thực sự dân chủ với những cá nhân hạnh phúc, tự định hướng và tự giáo dục.

Quan điểm của Holt về bản chất con người hoàn toàn trái ngược với quan điểm của nhiều người bảo thủ xã hội thuộc cả quan điểm tôn giáo và phi tôn giáo. Một trong những cuộc tranh luận lớn về nhân chủng học đang diễn ra trong lịch sử đặt truyền thống Lãng mạn của Holt chống lại lập luận của Calvin rằng con người (bao gồm cả trẻ em) bị tha hóa một cách vô vọng, đến mức chỉ có một hành động của ân sủng thiêng liêng mới có thể khắc phục tình trạng đó. Cả hai bên đều nhận ra sự hiện diện của cái ác trên thế giới, nhưng chỉ ra các nguồn khác nhau là vấn đề, và do đó, các biện pháp khắc phục khác nhau. Những người, giống như Holt, ủng hộ lòng tốt bẩm sinh của con người đổ lỗi cho các thể chế xấu xa và môi trường đồi bại là nguyên nhân dẫn đến hành vi chống đối xã hội và tội phạm của con người. Do đó, biện pháp khắc phục suy nghĩ và hành vi xấu ở trẻ em là thay thế một môi trường đồi bại bằng một môi trường lành mạnh.[12]

Calvin và những người kế tục hệ tư tưởng của ông, cả Tin lành và Công giáo, bác bỏ một cách ngây thơ giải pháp môi trường đối với cái ác. Mặc dù môi trường tích cực có thể đáng mơ ước và hữu ích, nhưng chúng không giải quyết được vấn đề gốc rễ của con người, đó là vấn đề tâm linh và cần một giải pháp tâm linh chứ không phải thay đổi môi trường. Điều chỉnh môi trường giáo dục để thúc đẩy hành vi đạo đức tốt nhất chỉ hữu ích tạm thời và cuối cùng chỉ là mỹ phẩm. Tình trạng hiện tại ở các trường công lập cho thấy rằng giáo dục do nhà nước điều hành thậm chí còn thất bại ngay ở vai trò như một thứ mỹ phẩm.

Thứ hai, trẻ em có nên có quyền như người lớn không? Câu hỏi này, liên quan chặt chẽ với câu hỏi đầu tiên, liên quan đến vai trò của trẻ em trong gia đình và ngoài xã hội. Quan điểm của Holt về thể chế gia đình khá nước đôi, do đó, các gia đình truyền thống vững mạnh hầu như không phải là một lựa chọn trong dự liệu của Holt. Tuy nhiên, các gia đình đại diện cho một môi trường ít áp bức hơn so với trường học. Mặc dù cảnh giác với quyền hạn của cha mẹ, Holt coi gia đình ít có khả năng phá hoại quyền trẻ em hơn so với trường học do chính phủ ủy quyền và coi cha mẹ là chìa khóa để cung cấp môi trường học tập thích hợp cho con cái họ. Có lẽ Holt đã khuất phục trước thực tế cuộc sống của người Mỹ, và vì nhu cầu cần có sự tham gia của cha mẹ trong hoạt động giáo dục tại nhà, ông đã coi cha mẹ là chìa khóa của phong trào.

Bất kể thỏa hiệp cuối cùng của ông là gì, Holt thực sự là một người cấp tiến thực sự trong các vấn đề liên quan đến thời thơ ấu và quyền của trẻ em. Mặc dù không nên xa lánh những ý tưởng của Holt về thời thơ ấu chỉ đơn thuần dựa trên cơ sở cực đoan của chúng (đôi khi những câu trả lời cực đoan lại là câu trả lời đúng), nhưng chúng nên bị bác bỏ vì chúng phi lý (trẻ em bỏ phiếu, lái xe và tự chọn người giám hộ bằng cách nào?!). Những lập luận của Holt về quyền tự chủ của trẻ em, mặc dù phải thừa nhận rằng có một tính chất mơ hồ, nhưng lại phảng phất một kiểu chủ nghĩa hiện sinh lạc quan thần thánh hóa ý chí con người và coi bất kỳ nỗ lực nào nhằm yêu cầu bất kỳ ai làm bất cứ điều gì là phi nhân tính. Sự biện hộ của Holt gợi nhớ đến một thanh niên hư hỏng, đòi hỏi tình yêu và tiền bạc của cha mẹ mình trong khi phủ nhận họ có bất kỳ quyền hạn hợp pháp nào đối với cuộc sống của mình. Đứa trẻ bị bỏ lại một mình mà không có sự can thiệp quan trọng, có trách nhiệm của người lớn, sẽ không trở thành một cá nhân hạnh phúc, tự định hướng, tự giáo dục, góp phần hiện thực hóa một xã hội dân chủ thực sự, nhưng như nhà phê bình đã chỉ trích Holt đã nói, “… lớn lên trở thành một con quái vật vô đạo đức, ngu dốt…”

Thứ ba, chính phủ có nên điều hành các trường học và buộc phụ huynh phải gửi con cái của họ cho trường không? Câu hỏi kép này có lẽ là câu hỏi gây tranh cãi và khiêu khích nhất mà Holt nêu ra. Đặc biệt là sau khi tiếp xúc với những ý tưởng của Ivan Illich, Holt đã nhận thấy thể chế trường học vốn dĩ là xấu xa, hủy hoại khả năng học tập bẩm sinh của trẻ em, là công cụ của người giàu để áp bức người nghèo và không có hy vọng cải cách. Ông đã cùng với Illich kêu gọi “xóa bỏ trường học của xã hội”. Vấn đề trung tâm liên quan đến quyền tài phán thích hợp của tiểu bang và liệu quyền tài phán đó có nên mở rộng sang việc giáo dục trẻ em hay không. Có phải trẻ em chỉ là sinh vật của nhà nước, hay có những quyền tài phán khác như cha mẹ hoặc Chúa có lợi ích hợp pháp trong cuộc sống của trẻ em? Ai chịu trách nhiệm giáo dục trẻ – nhà nước, cha mẹ, hay, như Holt tuyên bố, chính trẻ em? Chính phủ có lợi ích chính đáng trong việc đảm bảo công dân được giáo dục hay không và nếu có, làm thế nào để lợi ích của chính phủ và quyền của cha mẹ trong việc nuôi dưỡng con cái của họ được cân bằng một cách công bằng?

Mặc dù việc dỡ bỏ các hệ thống trường học do chính phủ điều hành có thể là một lựa chọn hấp dẫn đối với một số người, nhưng lý do Holt đề xuất một điều như vậy không hấp dẫn lắm. Nếu tính hợp pháp của giáo dục công được tranh luận, thì nó nên được thực hiện trên cơ sở trực tiếp là quyền của cha mẹ và cuối cùng là trên cơ sở thần học, chứ không phải quyền tự do của trẻ em. Rõ ràng là cha mẹ chịu trách nhiệm chính trong việc đáp ứng nhu cầu của con cái họ; một điều hiển nhiên không kém là trách nhiệm của cha mẹ này bao gồm các quyết định giáo dục và sự tham gia của chính phủ vào lĩnh vực giáo dục có thể nhanh chóng trở thành sự chiếm đoạt đặc quyền của cha mẹ.

Thomas Jefferson, mặc dù là một người ủng hộ nhiệt tình cho giáo dục công lập, đã thiết lập những cơ sở khác ngoài quyền của cha mẹ mà tính hợp pháp của giáo dục chính phủ có thể bị tranh cãi. Trong nỗ lực giải tán nhà thờ Anh giáo và thiết lập quyền tự do tôn giáo ở Virginia, Jefferson lập luận rằng những người tự do không nên bị buộc phải trợ cấp thông qua thuế cho những ý tưởng tôn giáo mà họ cho là ghê tởm. Với sự áp đảo của chủ nghĩa tự nhiên/chủ nghĩa thế tục trong giáo dục công, cùng với việc áp dụng sai lầm của cơ quan tư pháp về việc tách biệt học thuyết nhà thờ và nhà nước, người ta có thể lập luận một cách hợp pháp rằng những người có đầu óc tôn giáo không nên bị buộc phải trợ cấp thông qua thuế cho những thế giới quan chống tôn giáo của họ được chấp nhận bởi các trường công lập. Tuy nhiên, các cơ quan lập pháp của bang và công chúng nói chung đã thể hiện rất ít nếu có bất kỳ khuynh hướng nào trong việc hủy bỏ các trường công lập, vì vậy cuộc thảo luận giờ đây chuyển sang vấn đề bắt buộc đi học.

Vào năm 1642 và 1647, Vịnh Massachusetts đã thiết lập tiền lệ thuộc địa bằng cách thông qua luật giáo dục yêu cầu các thị trấn thành lập các trường học được hỗ trợ bởi thuế. Massachusetts vẫn đi đầu trong phát triển giáo dục sau Cách mạng. Các trường tiểu học công lập, miễn phí đầu tiên (được gọi là trường phổ thông), xuất hiện ở Massachusetts, trong khi người dân Boston thành lập trường trung học công lập, miễn phí đầu tiên ở Mỹ vào năm 1821. Massachusetts là bang đầu tiên thành lập hội đồng trường tiểu bang với tổng giám đốc trường tiểu bang ( 1836) và là bang đầu tiên thông qua luật bắt buộc đi học (1852). Trớ trêu thay, hơn 100 năm sau, John Holt chuyển đến Boston và bắt đầu đặt câu hỏi, sau đó tấn công, một số thông lệ đã được thiết lập liên quan đến sự tham gia của chính phủ vào giáo dục, đặc biệt là ý tưởng bắt buộc đi học. Khi kêu gọi các lựa chọn giáo dục thay thế dựa trên tự do cá nhân, Holt và các nhà cải cách có cùng chí hướng khác đã giúp tạo ra phong trào trường học miễn phí. Jonathan Kozol, trích dẫn sự thất bại của các trường công lập, đã thành lập một trong những trường học miễn phí đầu tiên ở Boston vào năm 1966.

Dòng chảy xã hội của những năm 1960 và 1970 đã dẫn đến những lời chỉ trích đáng kể đối với các trường do chính phủ điều hành và ngày càng có nhiều lời kêu gọi về các lựa chọn giáo dục thay thế. Môi trường này cuối cùng không chỉ tạo ra các trường học miễn phí mà còn tạo ra một phong trào trường học Cơ đốc giáo đang phát triển và cuối cùng là hàng nghìn trường học gia đình. May mắn thay, các cơ quan lập pháp của tiểu bang, buộc phải đối phó với số lượng ngày càng tăng của các nhà giáo dục tại nhà, đã nhận ra rằng giáo dục có thể diễn ra ở những môi trường bên ngoài trường công lập, thậm chí ngay cả trong nhà. Nhưng các cơ quan lập pháp này, khi viết lại luật bắt buộc đi học của tiểu bang để phù hợp với giáo dục tại nhà, không bị thúc đẩy bởi lời kêu gọi sai lầm của Holt về quyền trẻ em,[13] mà bởi quan niệm hợp lý hơn về quyền của phụ huynh. Đối với tình trạng này, các bậc cha mẹ tham gia vào việc giáo dục con cái của họ có thể biết ơn.

Trong những năm 1960, 1970 và đầu những năm 1980 đầy biến động, John Holt đã tiến lên với tư cách là người ủng hộ trẻ em và cuối cùng là giáo dục tại gia. Nói chung, hệ tư tưởng giáo dục của Holt đại diện cho một trong hai dòng triết học chính tạo nên nền tảng trí tuệ của phong trào trường học tại gia hiện nay ở Hoa Kỳ. Holt là điển hình cho hệ tư tưởng tự do, được phổ biến bởi những nhà cải cách trường học cấp tiến của những năm 1960 và 1970 và được nhiều người phản văn hóa đón nhận. Căng thẳng thứ hai là ý thức hệ của Cơ đốc giáo bảo thủ, vốn đã làm lu mờ rất nhiều yếu tố cấp tiến trong phong trào trường học tại gia, ít nhất là trong suốt thập kỷ của những năm 1980. Nhưng đó là một câu chuyện khác cho một ngày khác.

Casey Patrick Cochran, Ph.D. – Chuyên ngành Nghiên cứu giáo dục, Emory University,
Hà Thủy Nguyên dịch

Nguồn bài: https://www.nheri.org/home-school-researcher-a-radical-ideology-for-home-education-the-journey-of-john-holt-from-school-critic-to-home-school/ 

Chú thích

  1. Vào đầu những năm 1970, Holt coi chứng chỉ giáo dục là một vấn đề xã hội lớn và trải nghiệm giáo dục là một vấn đề riêng tư, và từ đó cho đến khi qua đời vào năm 1985, ông từ chối thảo luận về nền tảng học vấn của mình — đặc biệt là việc ông theo học tại Yale. Ngay cả bây giờ, những người kế nhiệm ông tại Holt Associates, Inc. vẫn do dự tiết lộ thông tin này (Patrick Farenga, thư gửi tác giả, ngày 9 tháng 9 năm 1994). Điều này được cung cấp ở đây với điều kiện rằng người đọc hiểu được sự chán ghét của Holt đối với việc quảng cáo công khai về vị thế giáo dục.
  2. Tại Trường Shady Hill, một học viện tư nhân tiến bộ, Holt đã làm việc với William Hull và David Armington, những người đã rất ấn tượng với môi trường bình thường của các trường dành cho trẻ sơ sinh người Anh ở Hạt Leicestershire, Anh sau chuyến thăm vào năm 1961. Ngay cả sau đó, khi rời Shady Hill, Holt thường xuyên gặp Hull và Armington để thảo luận về giáo dục và suy nghĩ của trẻ em (Ravitch, 1983).
  3. Một trong những người gièm pha Holt là Robert J. Menges (1968) của Đại học Illinois, người đã chỉ ra trong Hồ sơ Đại học Sư phạm rằng các kết luận của Holt sẽ không bao giờ làm hài lòng các nhà nghiên cứu giáo dục vì ông không “phát biểu từ một vị trí lý thuyết mạch lạc” ( trang 800) và đưa ra “chỉ một loạt giai thoại của một người quan sát” làm bằng chứng mà “không có nhóm kiểm soát nào trong tầm nhìn”. “Thật vậy,” Menges lưu ý, “làm sao người ta có thể tự tin tuyên bố những gì những đứa trẻ này đã học được?” (tr. 802). Holt, tự coi mình là một nhà nhân chủng học hoặc dân tộc học hơn là một nhà khoa học trong phòng thí nghiệm, đã phản bác lại những lời chỉ trích đó bằng cách viện dẫn giá trị của việc quan sát cẩn thận khi tìm hiểu về trẻ em và việc không thể tập hợp một nhóm kiểm soát thực sự khi hoàn cảnh xuất thân của từng đứa trẻ rất đa dạng (Farenga, thư cho tác giả, ngày 9 tháng 9 năm 1994).
  4. Vào mùa thu năm 1968, Holt đã dạy một khóa học có tên là “Học tập theo định hướng của sinh viên” tại Harvard, trong đó ông không cho điểm và không yêu cầu bài tập. Ông ấy đã dạy một khóa học tương tự tại Berkeley vào quý mùa đông tiếp theo. Một sinh viên Harvard đã viết cho Holt, “Những [sinh viên] tìm thấy hướng đi nào đó cho bản thân sẽ nói một cách thích thú về khóa học của ông, trong khi những người không thể xử lý sự tự do vẫn cay đắng” (Sheffer, 1990, trang 48). Holt phản bác rằng người học, “giống như tất cả các đối tượng khác,” học cách tham gia vào “sự tống tiền về mặt cảm xúc” bằng cách đổ lỗi cho giáo viên khi mọi việc diễn ra không như ý muốn (Sheffer, 1990, trang 50).
  5. Holt đã đến thăm nhiều trường học miễn phí ở Hoa Kỳ và tham gia vào cuộc đối thoại xung quanh phong trào này, trong đó nhấn mạnh, trong số những thứ khác, việc học tập do học sinh định hướng. Tuy nhiên, sau đó, Holt vỡ mộng với phong trào trường học tự do, một phần vì nó phần lớn không sống theo lý tưởng tự do của mình (Holt, 1981).
  6. Một nhà phê bình coi Freedom and Beyond là “ đáng thất vọng,” “vụng về,” và “mâu thuẫn,” nhưng rằng  nó “chỉ đơn giản là vì Holt quá quan trọng để có thể bỏ qua” (Review, 1972, p. 1018)
  7. Bài báo của Marin đã xuất hiện trong số ra tháng 1 năm 1969 của Tạp chí Center, một ấn phẩm của Trung tâm Nghiên cứu các Thể chế Dân chủ (Sheffer, 1990).
  8. Một trong những cộng sự thân cận của Holt sau đó nói rằng Holt không tin rằng trẻ em nên hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của người lớn và Holt đã thừa nhận rằng trẻ em cần cha mẹ hoặc người lớn quan tâm chăm sóc và hướng dẫn chúng trong quá trình tự chủ hơn đối với các hoạt động của mình trong cuộc sống. Liên quan đến quyền của trẻ em, Holt coi luật bắt buộc đi học theo sắc lệnh của chính phủ là mối đe dọa hơn là quyền hạn của cha mẹ (Phỏng vấn Farenga, ngày 20 tháng 10 năm 1994). Tuy nhiên, Thoát khỏi tuổi thơ đã tiết lộ sự bất đồng đáng kể của Holt với quyền lực mạnh mẽ của cha mẹ.
  9. Mối quan tâm của Holt đối với âm nhạc, đặc biệt là đàn cello, được ghi lại trong cuốn sách Never Too Late: My Musical Life Story năm 1978 của ông, trong đó ông viết: “Nếu tôi có thể học chơi đàn cello thành thạo… tôi có thể thể hiện bằng tấm gương của chính mình rằng… bất cứ điều gì chúng ta muốn học… chúng ta có thể học được; rằng cuộc sống của chúng ta không bị quyết định và cố định bởi những gì đã xảy ra… khi chúng ta còn nhỏ, hoặc bởi những gì các chuyên gia cho rằng chúng ta có thể hoặc không thể làm” (Holt, 1978, trang 185).
  10. Sau khi qua đời, Holt để lại một bản thảo chưa hoàn thành bắt đầu vào đầu năm 1982. Nó được xuất bản sau khi ông qua đời vào năm 1989 với tựa đề Học mọi lúc. Các phần của nó trước đây đã xuất hiện dưới dạng các bài báo trên The New Boston Review, The Atlantic Weekly và The Progressive. Holt đã mô tả tác phẩm chủ yếu mang tính giai thoại này là “một bằng chứng [in nghiêng của Holt] rằng trẻ em, không bị ép buộc hoặc thao túng, hoặc bị đưa vào những môi trường kỳ lạ, được chuẩn bị đặc biệt, hoặc được sắp đặt hoặc sắp đặt suy nghĩ cho chúng, có thể, sẽ, và hiện tiếp thu từ thế giới xung quanh những thông tin quan trọng về cái mà chúng ta gọi là Cơ bản” (Holt, 1989, p. xv).
  11. Lựa chọn thứ ba do Locke, Skinner và những người khác đề xuất là con người không sở hữu những khuynh hướng tự nhiên, bẩm sinh và chỉ hành xử theo kinh nghiệm sống của mình.
  12. Giải pháp môi trường đối với hành vi sai trái và tội phạm này là nguyên lý cơ bản của phong trào trường học chung của Horace Mann ở Massachusetts thế kỷ 19, phong trào này đã tăng tốc và mở rộng để trở thành thử nghiệm khắp toàn quốc trong giáo dục công phổ thông. Phong trào này nâng cao quan niệm sai lầm rằng sự ra đời của giáo dục công cộng sẽ báo hiệu sự sụp đổ của hệ thống nhà tù công cộng (hoặc ít nhất là giảm đáng kể số lượng tù nhân), vì một đứa trẻ học ở trường hỗ trợ nhà nước – nghĩa là một môi trường tốt – sẽ không phạm tội. Trong khi Holt và Mann có thể đồng ý về bản chất của con người, rõ ràng họ sẽ không đồng ý về những gì tạo nên một “môi trường tốt”.
  13. Tác giả không coi thường các quyền hợp pháp của trẻ em, nhưng thấy một số đề xuất của Holt là quá đáng.

Tài liệu tham khảo:

Allen, Mel (1981). The education of John Holt. [Reprint of article appearing in Yankee magazine, December, 1981]. (Available from Holt Associates, 2269 Massachusetts Ave., Cambridge, MA 02140).

Farenga, Patrick (1994, September 29). Telephone interview with author (Unrecorded).

Farenga, Patrick (1994, October 20). Telephone interview with author (Unrecorded).

Featherstone, Joseph (1968). New kind of schooling [Review of How children fail]. New Republic, 158, 27-31.

Gross, Ronald (1965). [Review of How children fail]. Book Week, February 7, p. 5.

Growing Without Schooling, 1977, Issue #1. (Available from Holt Associates, 2269 Massachusetts Ave., Cambridge, MA 02140).

Hentoff, Nat (1965). Processing and packaging our children [Review of How children fail]. Commonweal, 82, 386-387.

Hentoff, Nat (1972). [Review of Freedom and beyond]. Saturday Review, 55, 64-65.

Holt, John (1974). Escape from childhood. New York: Dutton.

Holt, John (1971). Freedom and beyond. New York: Dutton.

Holt, John (1964). How children fail. New York: Pitman Publishing Corp.

Holt, John (1967). How children learn. New York: Pitman Publishing Corp.

Holt, John (1976). Instead of education: Ways to help people do things better. New York: Dutton.

Holt, John (1989). Learning all the time. New York: Addison-Wesley.

Holt, John (1978). Never too late: My musical life story. New York: Delacorte Press.

Holt, John (1981). Teach your own: A hopeful path for education. New York: Delacorte Press.

Holt, John (1969). The underachieving school. New York: Pitman Publishing Corp.

Holt, John (1970). What do I do Monday?  New York: Dutton.

Levine, Gerald (1974). [Review of Escape from childhood]. New York Times Book Review, May 9, p. 4.

MacCampbell, J. C. (1964). [Review of How children fail]. Library Journal, 89, 4526.

Menges, Robert J. (1968). [Review of How children learn]. Teachers College Record, 69, 800-804.

Nordberg, Robert B. (1974). [Review of Escape from childhood]. Best Sellers, 34, 133.

Ravitch, Diane (1983). The troubled crusade: American education, 1945-1980. New York: Basic Books.

[Review of Freedom and beyond]. (1972). Choice, 9, 1018.

Sheffer, S. (Ed.) (1990). A life worth living: Selected letters of John Holt. Columbus, Ohio: Ohio State Univ. Press.

Stevens, L. B. (1970, November 29). Soft thinking by the first school reformer [Review of What do I do Monday?] New York Times Book Review, p. 6.

Chat với AI (2): Kết hợp Aristotle & Osho để hướng đến mô hình giáo dục hoàn hảo

Tiếp theo chuỗi Chat với AI, Book Hunter thực hiện một cuộc hỏi đáp kỳ thú về quan điểm giáo dục của Aristotle và Osho. Trong nhiều bài nói chuyện, Osho đưa ra nhiều chỉ trích quan điểm giáo dục và công cụ tư duy của Aristotle, điều này dẫn đến nhiều tín đồ của Osho lên tiếng phê bình gay gắt quan điểm của Aristotle. ChatGPT đã đưa ra những kiến giải xuất sắc về sự khác biệt cũng như đồng thuận trong quan

Book Hunter

05/02/2023

Di sản giáo dục của Krishnamurti

Các bậc thầy tâm linh trong dòng lịch sử của nhân loại mỗi khi nhập thế để rồi rời bỏ thế gian, bên cạnh những lời giảng, thường để lại một di sản mang tính hiện thực hóa ý tưởng của họ. Đó có thể là giáo hội, có thể là tăng đoàn, có thể là một phương pháp tu, hay một trại thiền, một làng tâm linh…nhưng Krishnamurti (1895 - 1986), bậc thầy tâm linh độc lập có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20

Cuộc Cách mạng giáo dục đến từ mỗi chúng ta

Bạn đang trông chờ một cuộc Cách mạng thay đổi nền giáo dục? Bạn nghĩ rằng cuộc Cách mạng này sẽ đến từ những nhà nghiên cứu giáo dục hay đến từ các phong trào đấu tranh? Cuộc Cách mạng thay đổi nền giáo dục chỉ đến từ chính bạn: Khi bạn nói không với hệ thống giáo dục đang ngày một thối nát… Khi bạn sẵn sàng đương đầu với cuộc sống mà không cần sự thừa nhận của xã hội… Khi bạn dũng

John Holt – Nhà giáo dục homeschool tiên phong

Không một ai quen biết Holt lại có thể đoán trước được vai trò nổi bật về sau của ông với tư cách là nhà tiên phong, nhà lý thuyết và nhà tổ chức về giáo dục tại nhà (homeschool). Mặc dù sinh ra trong một gia đình giàu có ở New England, nhưng mối quan hệ của ông với cha mẹ gần như không có. Em gái của Holt kể lại rằng cả bà ấy và John đều “cảm thấy chúng tôi là gánh

Những cuốn sách giúp bạn hiểu hơn về Homeschooling

Homeschooling hay còn được dịch sang tiếng việt là " giáo dục tại gia " không phải khái niệm xa lạ đối với các bậc phụ huynh hiên nay. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều phụ huynh ngần ngại với hình thức giáo dục này. để giúp các bạn hiểu rõ hơn về homeschooling, Book Hunter xin được giới thiệu những cuấn sách phát biểu quan điểm, hướng dẫn phương pháp nghiên cứu về homeschooling. Những cuốn sách này hiện chưa được dịch sang tiếng Việt.

Tô Lông

06/07/2021