Home Đọc YUVAL NOAH HARARI & khoa học dân túy

YUVAL NOAH HARARI & khoa học dân túy

Yến Nhi

27/09/2024

Tác giả triệu đô này là người kể chuyện bậc thầy và diễn giả nổi tiếng. Nhưng ông đã chọn hy sinh khoa học để đổi lấy sự giật gân khiến công trình của ông đầy những dấu chấm hỏi.

Hãy xem thử những video phỏng vấn Yuval Noah Harari, tác giả của cuốn sách nổi đình nổi đám Sapiens: Lược sử loài người, và bạn sẽ thấy ông được hỏi những câu hấp dẫn nhất.

  •                     “Trong một trăm năm nữa, ông có nghĩ chúng ta còn quan tâm đến hạnh phúc nữa không?” – Nhà báo người Canada Steve Paikin, trong chương trình “The Agenda with Steve Paikin”
  •                     “Những gì tôi học có còn ý nghĩa gì không và tôi nên chuẩn bị như thế nào cho tương lai?” – một sinh viên ngôn ngữ tại trường Đại học Antwerp
  •                     “Cuối quyển Sapiens, ông nói chúng ta nên tự vấn rằng, ‘Chúng ta muốn mình muốn điều gì?’ Vậy thì, ông nghĩ chúng ta nên muốn mình muốn điều gì?” – một khán giả tại chương trình TED Dialogues, Chủ nghĩa dân tộc với Toàn cầu hóa: Sự phân cực chính trị mới
  •                     “Ông là người luyện tập thiền Vipassana. Nó có giúp ông đến gần với ơn trên? Thiền có phải là nơi ta có thể làm điều đó?” – người dẫn chương trình India Today Conclave năm 2018

Cung cách của Harari tương đối mềm mỏng, có chút ngại ngùng trong những lần đối thoại trực tiếp thế này. Thỉnh thoảng, ông sẽ hiền lành mà nói rằng mình không có quyền năng thần thánh gì, sau đó nhanh chóng chuyển sang trả lời câu hỏi khác với một quyền uy khiến bạn tự hỏi liệu ông có đạt được ơn trên thần thánh chưa. Một trăm năm nữa thôi thì mặt đất này sẽ vắng bóng con người mà chỉ còn lại những giống loài rất khác như người máy và trí tuệ nhân tạo, Harari đã trả lời Paikin như vậy, ông ngầm ý sẽ rất khó cho việc dự đoán “đời sống cảm xúc và tinh thần của những thực thể đó”. Đa dạng hóa, ông khuyên người sinh viên đại học, vì thị trường lao động năm 2040 sẽ biến đổi liên tục. Chúng ta nên “muốn mình muốn khám phá sự thật”, ông phát biểu tại hội nghị TED. “Tôi thực hành thiền Vipassana để nhìn thực tại cho rõ hơn,” Harari nói trong India Conclave, ra vẻ như cố nén cười vì câu hỏi ngớ ngẩn. Một lúc sau, ông bảo: “Nếu có mỗi thực tại của 10 giây hơi thở mà tôi còn không quan sát được thì hy vọng gì mà đi quan sát thực tế của hệ thống địa chính trị?”

Nếu bạn còn chưa thấy thuyết phục, thì đây: phe cánh ủng hộ Harari là những người quyền lực nhất thế giới, họ tôn thờ ông như thể các vị vua cổ đại tôn thờ các vị thần bảo trợ. Mark Zuckerberg hỏi Harari rằng liệu công nghệ đang chia rẽ hay đang đoàn kết nhân loại. Giám đốc quản lý của Quỹ Tài Chính Quốc tế (IMF) hỏi ông liệu bác sĩ có bị phụ thuộc vào thu nhập cơ bản phổ quát (UBI) trong tương lai không. CEO của Axel Springer, một trong những ông trùm ngành xuất bản châu Âu, xin lời khuyên của Harari về cách mà các đơn vị xuất bản vươn lên trong thời đại số. Trong cuộc phỏng vấn cùng UNESCO, ông được hỏi về tác động của COVID lên các tổ chức khoa học quốc tế. Để ủng hộ các sắc lệnh nửa vời của Harari, mỗi người đã tự lật đổ chính quyền của họ. Và họ đã làm điều đó, không phải vì nghe lời một chuyên gia trong bất kỳ lĩnh vực nào, mà vì nghe một nhà sử học, là một kẻ lừa đảo trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong khoa học.

Thời gian chẳng nương tay một ai, và ta, tất cả chúng ta, đều mải miết kiếm tìm đáp án cho những câu hỏi trần trụi về sự sinh diệt. Nhân loại rồi có sống sót qua làn sóng đại dịch và biến đổi khí hậu đang tràn tới? Trong gen của của chúng ta có ẩn giấu chìa khóa để ta mở ra mọi thứ về bản thân mình? Công nghệ có thể cứu rỗi ta chăng, hay là hủy diệt ta? Ta khao khát tìm thấy một người dẫn đường khôn ngoan–một kiểu nhà tiên tri táo bạo vượt qua mọi ranh giới để cho ta đáp án đơn giản, dễ hiểu và đáng tin, kết tinh chúng thành những câu chuyện cuốn hút– thì cũng dễ hiểu thôi. Nhưng vậy có đúng thực tế không?

Nó khiến tôi lo lắng rằng, đối với nhiều người câu hỏi này thậm chí còn chả đáng nhắc đến. Cú bom tấn Sapiens của Harari là vở sử ca hào hùng của nhân loại, từ khởi đầu khiêm tốn của loài vượn đến tương lai ta khởi sinh thứ thuật toán có thể soán ngôi và thống trị con người. Sapiens được xuất bản bằng tiếng Anh năm 2014, và đến năm 2019, nó đã được dịch ra hơn 50 thứ tiếng, bán hơn 13 triệu bản. Khi giới thiệu sách hay trên CNN năm 2016, tổng thống Obama đã ca ngợi rằng Sapiens, như kim tự tháp Giza, đã khiến ông “mở rộng tầm mắt” về tiến trình văn minh dị thường của nhân loại. Harari đã xuất bản thêm hai cuốn sách tiếp nối–Homo Deus: Lược sử tương lai (2017) và 21 bài học cho thế kỷ 21 (2018). Gom tất cả sách của Harari lại thì đã có hơn 23 triệu bản được bán trên toàn cầu. Ta có thể xem ông là học giả được săn đón nhiều nhất trên thế giới, sải bước trên những sân khấu xa hoa cao vợi, kiếm được hàng trăm nghìn đô la cho mỗi lần xuất hiện.

 Chúng ta bị thu hút bởi Harari không phải bởi sự thật hay học vấn của ông mà là bởi khả năng kể chuyện. Là nhà khoa học, tôi hiểu rằng việc biến hóa những vấn đề phức tạp thành câu chuyện vừa hấp dẫn vừa chính xác khó khăn ra sao. Tôi biết khi nào thì khoa học đã hy sinh cho sự giật gân mê hoặc lòng người. Yuval Harari là kiểu mà tôi gọi là “nhà dân túy gắn mác khoa học” (chuyên gia trên Youtube và nhà tâm lý học lâm sàng người Canada Jordan Peterson là một ví dụ khác). Nhà dân túy gắn mác khoa học là những người kể chuyện tài năng, họ khéo léo đan cài những sợi chỉ rực rỡ sắc màu quanh những “sự thật” khoa học với thứ ngôn ngữ giản dị và giàu cảm xúc. Cách họ diễn đạt thường sạch bóng dấu vết của ngần ngừ và nghi ngại, chiếu rọi ánh sáng quyền uy giả tạo và khiến thông điệp họ nói nghe thật thuyết phục. Giống như những người bạn chính trị gia của mình, những người theo chủ nghĩa dân túy cộp mác khoa học là nguồn gốc cho những thông tin sai lệch. Họ quảng bá những cuộc khủng hoảng giả, trong khi làm như thể mình là người có câu trả lời. Họ hiểu sức hấp dẫn của một câu chuyện hay nên không ngừng tìm cách mở rộng khán giả trong khi chẳng bao giờ bận tâm rằng nền tảng khoa học đang bị biến dạng khi truy cầu danh tiếng và sức ảnh hưởng.

Trong thời đại ngày nay, việc kể một câu chuyện hay là cần thiết, nhưng rủi ro hơn bao giờ hết, đặc biệt là khi nói đến khoa học. Khoa học cung cấp thông tin về y tế, môi trường, luật pháp và nhiều quyết định mang tính cộng đồng khác, cũng như quan điểm cá nhân của chúng ta về những điều cần cảnh giác và cách làm chủ đời mình. Các hành động của cá nhân ta và rộng hơn là của xã hội phụ thuộc vào sự hiểu biết của ta về thế giới xung quanh trở nên quan trọng hơn bao giờ hết trong bối cảnh bệnh dịch xảy ra ở mọi nhà và điều tồi tệ nhất sắp đến là biến đổi khí hậu. 

Đã đến lúc phải đem Nhà tiên tri dân túy của chúng ta, và những người giống ông, ra mà soi cho rõ ràng.

Điều này có thể gây ngạc nhiên cho bạn đây, nhưng giá trị thực tế của công trình bởi Yuval Harari tạo ra không được công nhận từ các học giả hoặc các ấn phẩm lớn. Cố vấn luận án của Harari, Giáo sư Steven Gunn từ Oxford — người đã hướng dẫn nghiên cứu của Harari về “Hồi ức quân sự thời Phục hưng: Chiến tranh, Lịch sử và Bản sắc, 1450-1600” — đã đưa ra một nhận xét đáng kinh ngạc rằng học trò cũ của ông đã tìm cách để trót lọt qua quá trình kiểm tra tính xác thực. Trong trang hồ sơ cá nhân về Harari năm 2020 của New Yorker, Gunn cho rằng Harari — cụ thể là với cuốn sách Sapiens — đã qua mặt sự phê bình của giới chuyên môn với đoạn: “bằng cách nói,’Hãy đặt những câu hỏi lớn đến mức không ai có thể nói rằng, tôi nghĩ điều này sai, điều kia sai.’… Không ai là chuyên gia về ý nghĩa của mọi thứ, hay lịch sử của mọi người, trong một tiến trình lịch sử dài. “

Tuy nhiên, tôi vẫn thử kiểm tra tính xác thực của Sapiens — cuốn sách bắt đầu mọi thứ. Tôi đã tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp trong cộng đồng khoa học thần kinh lẫn sinh học tiến hóa và nhận thấy rằng lỗi của Harari rất nhiều và nghiêm trọng đến nỗi không thể bị coi là vạch lá tìm sâu. Mặc dù được bán dưới dạng sách phi hư cấu, một số câu chuyện của ông có vẻ như được dựng lên hơn là sự thật – đấy đều là dấu hiệu của một nhà dân túy cộp mác khoa học.

Hãy xem xét “Phần 1: Cuộc cách mạng nhận thức”, nơi Harari viết về việc loài người chúng ta nhảy lên đỉnh chuỗi thức ăn, và vượt qua cả sư tử.

“Hầu hết những kẻ săn mồi hàng đầu hành tinh là những sinh vật kiêu hùng. Hàng triệu năm thống trị đã khiến chúng tràn đầy tự tin. Ngược lại, Sapiens giống một nhà độc tài cộng hòa chuối hơn. Mới gần đây, chúng ta chỉ là một trong những kẻ yếu nhất của thảo nguyên, chúng ta tràn đầy nỗi sợ hãi và lo lắng về vị trí của mình, điều này khiến chúng ta trở nên độc ác và nguy hiểm gấp đôi ”.

Harari kết luận rằng, “nhiều thảm họa lịch sử, từ chiến tranh chết chóc đến thảm họa sinh thái, đều là kết quả của bước nhảy quá vội vàng này.”

Với tư cách là một nhà sinh học tiến hóa,đoạn văn này khiến tôi phải nghiến răng nghiến lợi. Chính xác thì điều gì chứng minh một con sư tử có tự tin hay không? Một tiếng gầm lớn? Một đàn sư tử cái vây quanh? Một cái móng vuốt bén ngót? Kết luận của Harari có dựa trên những quan sát hiện trường hay thí nghiệm trong phòng lab không? (Văn bản trên không có manh mối nào về nguồn mà ông ấy dùng). Liệu lo lắng có thực sự khiến con người trở nên tàn nhẫn? Có phải ông ấy đang ám chỉ rằng, nếu chúng ta từ tốn leo lên đỉnh của chuỗi thức ăn, thì hành tinh này sẽ không có chiến tranh hay biến đổi khí hậu do con người gây ra?

Đoạn văn gợi lên những cảnh từ Vua sư tử — Mufasa quyền uy hướng về phía đường chân trời và nói với Simba rằng mọi thứ ánh sáng chạm vào đều là vương quốc của ngài. Cách kể chuyện của Harari rất sinh động và hấp dẫn, nhưng nó không có tính khoa học.

Tiếp theo, hãy đặt vấn đề về ngôn ngữ. Harari tuyên bố rằng “[nhiều] động vật, bao gồm tất cả các loài vượn và khỉ, có ngôn ngữ giọng nói.”

Tôi đã dành một thập kỷ để nghiên cứu giao tiếp bằng giọng nói của loài khỉ marmosets, một loài khỉ ở Thế giới mới. (Thỉnh thoảng, giao tiếp của bọn tôi bao gồm cả việc chúng hướng về phía tôi mà tè bậy.) Tại Viện Khoa học Thần kinh Princeton, nơi tôi nhận bằng tiến sĩ, chúng tôi đã nghiên cứu cách hành vi giọng nói xuất hiện từ sự tương tác của các hiện tượng tiến hóa, phát triển, tế bào thần kinh và cơ sinh học. Công trình của chúng tôi đã thành công trong việc phá vỡ giáo điều rằng giao tiếp của khỉ (không giống như giao tiếp của con người) được lập trình sẵn thành các mã thần kinh hoặc mã di truyền. Trên thực tế, chúng tôi đã phát hiện ra rằng những chú khỉ con học cách “nói chuyện” với sự giúp đỡ của cha mẹ chúng, theo cách tương tự như trẻ sơ sinh.

Thế nhưng, mặc dù có tất cả những điểm tương đồng với con người, nhưng không thể nói khỉ là có “ngôn ngữ”. Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu với các quy tắc ràng buộc, trong đó các ký hiệu (từ, câu, hình ảnh, v.v.) đề cập đến con người, địa điểm, sự kiện và các mối quan hệ trên thế giới — nhưng cũng gợi lên và tham chiếu các ký hiệu khác trong cùng một hệ thống (ví dụ: từ định nghĩa các từ khác). Tiếng kêu báo động của khỉ, và tiếng hót của chim và cá voi, có thể truyền thông tin; nhưng chúng ta – như nhà triết học người Đức Ernst Cassirer đã nói – sống trong “một chiều kích mới của thực tại” nhờ vào sự tiếp thu một hệ thống biểu tượng.

Các nhà khoa học có thể phát triển các lý thuyết riêng đầy thuyết phục về cách ngôn ngữ hình thành, nhưng tất cả mọi người – từ các nhà ngôn ngữ học như Noam Chomsky và Steven Pinker, đến các chuyên gia về giao tiếp linh trưởng như Michael Tomasello và Asif Ghazanfar – đều đồng ý rằng, mặc dù tiền đề của nó có thể được tìm thấy ở các loài động vật khác nhưng ngôn ngữ thuộc về duy nhất mỗi con người. Đó là một câu châm ngôn được dạy trong các lớp sinh học bậc đại học trên khắp thế giới và có thể được tìm thấy dễ dàng trên Google.

Các đồng nghiệp trong giới khoa học của tôi cũng nhận thấy vấn đề với Harari. Nhà sinh vật học Hjalmar Turesson chỉ ra rằng khẳng định của Harari về việc tinh tinh “đi săn cùng nhau và kề vai chiến đấu chống lại khỉ đầu chó, báo gêpa và tinh tinh kẻ thù” không thể đúng bởi vì báo gêpa và tinh tinh sống ở các khu vực khác nhau của châu Phi.” Harari có thể nhầm lẫn giữa báo gêpa với báo hoa mai,” Turesson nói.

Có thể, khi đi vào chi tiết, việc biết sự phân biệt giữa báo gêpa và báo hoa mai không mấy quan trọng vì dẫu sao Harari đang viết về con người kia mà. Nhưng thật không may, những sai sót của ông ấy cũng ảnh hưởng đến nhân loại. Trong chương Sapiens có tiêu đề “Hòa bình trong thời đại của chúng ta”, Harari sử dụng ví dụ về người Waorani của Ecuador để lập luận rằng về mặt lịch sử, “sự suy giảm của bạo lực phần lớn là do sự trỗi dậy của nhà nước”. Ông nói với chúng ta rằng người Waorani rất bạo lực vì họ “sống trong sâu thẳm rừng Amazon, không có quân đội, cảnh sát hay nhà tù.” Đúng là Waorani từng có tỷ lệ giết người cao nhất thế giới, nhưng họ đã sống trong sự hòa bình tương đối kể từ đầu những năm 1970. Tôi đã nói chuyện với Anders Smolka, một nhà di truyền học thực vật, người tình cờ đã dành thời gian nghiên cứu Waorani vào năm 2015. Smolka báo cáo rằng luật của Ecuador không được thực thi trong rừng và Waorani không có cảnh sát hoặc nhà tù của riêng họ. “Nếu những lời bàn tán về sự nguy hiểm vẫn còn được lan truyền, tôi chắc chắn rằng mình đã nghe qua,” anh nói. “Tôi làm tình nguyện viên cho một dự án du lịch sinh thái, vì vậy sự an toàn của khách là một vấn đề quan trọng.” Ở đây Harari sử dụng một ví dụ cực kỳ yếu kém để biện minh cho sự cần thiết của nhà nước cảnh sát nổi tiếng với sự phân biệt chủng tộc và bạo lực của chúng ta.

Những chi tiết này có vẻ vụn vặt, nhưng mỗi chi tiết đều là một viên gạch nát khiến nền móng có vẻ ngoài bất khả xâm phạm mà Harari xây dựng thực chất là một khối dễ dàng đổ sụp. Nếu đọc lướt qua cho thấy vô số lỗi cơ bản này, tôi tin rằng việc kiểm tra kỹ lưỡng hơn sẽ làm lộ ra hàng loạt sai lệch khác.(1)

Harari thường không chỉ mô tả quá khứ của chúng ta; ông ấy còn tiên lượng về tương lai của nhân loại. Tất nhiên, mọi người đều có quyền suy đoán về tương lai. Nhưng điều quan trọng là phải tìm hiểu xem những suy đoán này có chặt chẽ hay không, đặc biệt là nếu người đó có được sự quan tâm của giới tinh hoa nắm trong tay quyền lực sinh sát như Harari. Những dự báo sai sẽ dẫn tới hậu quả khôn lường. Chúng có thể đánh lừa các bậc cha mẹ ôm ấp ước mơ hão rằng kỹ thuật di truyền sẽ xóa bỏ chứng tự kỷ, dẫn đến việc đổ một số tiền khổng lồ vào các dự án vô vọng, hoặc khiến chúng ta lơ là chuẩn bị cho các mối đe dọa như đại dịch.

Đây là những gì Harari phải nói về đại dịch trong cuốn sách năm 2017 của ông ấy Homo Deus: Lược sử tương lai.

“Vì vậy, trong cuộc đấu tranh chống lại những thảm họa như AIDS và Ebola, quy mô đang nghiêng về phía có lợi cho nhân loại. … Do đó, chỉ khi nhân loại tự tạo ra bệnh dịch để phục vụ một ý thức hệ tàn nhẫn nào đó thì chúng ta mới bị đe dọa. Thời đại mà loài người bất lực trước dịch bệnh thiên nhiên có lẽ đã qua. Nhưng có khi chúng ta đã bỏ lỡ nó rồi. ”

 Tôi ước chúng ta đã bỏ lỡ. Thay vào đó, hơn 6 triệu người đã chết vì COVID theo số liệu chính thức, còn một vài ước tính thì đưa ra con số thực là 12-22 triệu. Và cho dù bạn nghĩ SARS-CoV-2 – loại vi rút gây ra đại dịch – đến trực tiếp từ tự nhiên, hay thông qua Viện Vi rút học Vũ Hán, tất cả chúng ta đều có thể đồng ý rằng đại dịch không được tạo ra để “phục vụ cho một ý thức hệ tàn nhẫn nào đó”.

Harari không thể sai hơn được nữa; tuy nhiên, giống như một nhà dân túy đội lốt khoa học giỏi, ông ấy tiếp tục cống hiến kiến ​​thức được cho là chuyên môn của mình bằng cách xuất hiện trên nhiều chương trình trong thời gian xảy ra đại dịch. Ông xuất hiện trên NPR, nói về “cách giải quyết cả dịch bệnh và khủng hoảng kinh tế sau đó”. Ông ta đã tham gia chương trình của Christiane Amanpour để làm nổi bật “những vấn đề then chốt xuất hiện từ đợt bùng phát coronavirus”. Sau đó là trên BBC Newsnight, nơi ông đưa ra “một quan điểm lịch sử về coronavirus.” Harari khuấy động podcast của Sam Harris, nơi ông nói với chúng ta về “tác động trong tương lai” của COVID. Harari cũng dành thời gian cho  Iran International cùng với Sadeq Saba, trên kênh India Today E-Conclave Corona Series và một loạt các kênh tin tức khác trên khắp thế giới.

Sử dụng cơ hội để thúc đẩy một cuộc khủng hoảng giả – một đặc điểm cốt lõi khác của một nhà dân túy gắn mác khoa học – Harari đã đưa ra những cảnh báo nghiêm trọng về “sự kiểm soát dưới-da” (đã được thừa nhận là một khái niệm đáng ngại). “Như một thử nghiệm giả tưởng,” ông nói, “hãy xem xét một chính phủ giả định yêu cầu mọi người dân phải đeo vòng tay sinh trắc học theo dõi nhiệt độ cơ thể và nhịp tim 24 giờ một ngày”. Ông nói, chiều ngược lại là chính phủ có thể sử dụng thông tin này để ngăn chặn dịch bệnh trong vòng vài ngày. Nhược điểm là nó có thể cung cấp cho họ một hệ thống giám sát nâng cao, bởi vì “nếu bạn có thể theo dõi những gì xảy ra với nhiệt độ cơ thể, huyết áp và nhịp tim của tôi khi tôi xem video clip, bạn có thể biết được điều gì khiến tôi cười, điều gì khiến tôi khóc, và điều gì khiến tôi thực sự tức giận. ”

Cảm xúc của con người, và những biểu hiện của nó đều mang tính chủ quan và rất đa dạng. Có sự khác biệt về văn hóa và cá nhân trong cách chúng ta giải thích cảm giác của mình. Cảm xúc của một người không thể được suy luận từ các thông số sinh lý bị tách rời khỏi ngữ cảnh (kẻ thù cũ, người yêu mới và caffeine đều có thể khiến tim ta đập nhanh hơn). Điều này đúng ngay cả khi các số đo sinh lý học diện rộng như nhiệt độ cơ thể, huyết áp và nhịp tim được theo dõi. Nó vẫn không sai khi ta theo dõi cả những các chuyển động trên khuôn mặt. Các nhà khoa học như nhà tâm lý học Lisa Feldman Barrett đang phát hiện ra rằng – trái ngược với niềm tin lâu nay – ngay cả cách mà mỗi người buồn bã và tức giận cũng không hề giống nhau. Feldman Barrett giải thích: “Các chuyển động trên khuôn mặt không giống như chữ in trên giấy để ta có thể dựa vào đó mà diễn dịch thành cảm xúc. Đây là lý do tại sao chúng ta không thể tạo ra các hệ thống công nghệ có thể suy ra những gì bạn hoặc tôi đang cảm thấy tại một thời điểm nhất định (và ta có lẽ không bao giờ có thể xây dựng những hệ thống có thể đọc hiểu tất cả mọi thứ như thế).

Tìm hiểu thêm về sách: Nguồn gốc cảm xúc – Lisa Feldman Barrett – Book Hunter Lyceum

Các tuyên bố của Harari là không hợp lý về mặt khoa học, nhưng chúng không thể bị bác bỏ. “Chúng ta đang sống trong một nhà tù panoticon kỹ thuật số,” như đồng nghiệp của tôi, nhà thần kinh học Ahmed El Hady, nói. Các tập đoàn và chính phủ liên tục theo dõi chúng ta. Nếu chúng ta để những người như Harari thuyết phục mình rằng các công nghệ giám sát có thể “hiểu về chúng ta còn rõ hơn ta hiểu chính mình”, thì chúng ta sẽ có nguy cơ bị các thuật toán đánh lừa. Và điều đó gây hệ quả tồi tệ hơn ở thế giới thực, chẳng hạn như quyết định ai là người có thể tuyển dụng hoặc ai gây ra rủi ro bảo mật dựa trên trí khôn giả định của một thuật toán.

Những suy đoán của Harari chỉ toàn dựa trên sự kém hiểu biết về khoa học. Chẳng hạn, những dự đoán của ông về tương lai sinh học của chúng ta dựa trên quan điểm tập trung vào gen của sự tiến hóa — một lối suy nghĩ đã (không may) thống trị các cuộc thảo luận của công chúng, chính vì những nhân vật của công chúng như ông. Chủ nghĩa giản lược như thế khuyến khích cái nhìn đơn giản về thực tại, và tệ hơn nữa, lấn sang địa hạt của thuyết ưu sinh một cách nguy hiểm.

Trong chương cuối cùng của Sapiens, Harari viết:

“Tại sao không quay lại bảng vẽ của Chúa và thiết kế những Sapiens tốt hơn? Khả năng, nhu cầu và mong muốn của Homo sapiens có cơ sở di truyền. Và bộ gen của loài sapiens không phức tạp hơn bộ gen của chuột đồng và chuột. (Bộ gen của chuột chứa khoảng 2,5 tỷ nucleobase, bộ gen sapiens khoảng 2,9 tỷ base, nghĩa là bộ gen sau chỉ lớn hơn 14%.)… Nếu kỹ thuật di truyền có thể tạo ra những con chuột thiên tài, tại sao không phải là con người thiên tài? Nếu nó có thể tạo ra chuột đồng một vợ một chồng, tại sao con người không trung thành bẩm sinh với bạn đời của mình?”(2)

Quả thực sẽ rất tiện lợi nếu kỹ thuật di truyền là một chiếc đũa thần — những cú nhấp nháy nhanh chóng của nó có thể biến những kẻ ngoại tình thành đối tác chung thủy và tất cả mọi người thành Einstein. Đáng buồn làm sao khi thực tế không diễn ra như vậy. Giả sử chúng ta muốn trở thành một giống loài phi bạo lực nhé. Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng hoạt động ở mức thấp của gen monoamine oxidase-A (MAO-A) có liên quan đến hành vi hung hăng và tội phạm bạo lực — nhưng trong trường hợp chúng ta bị cám dỗ để “quay lại bản vẽ của Chúa và thiết kế Sapiens tốt hơn” (Harari nói ta có thể), thì ta cần hiểu rằng không phải tất cả mọi người có mức hoạt động MAO-A thấp đều bạo lực, cũng như không phải tất cả mọi người có mức hoạt động MAO-A cao đều hòa nhã. Những người lớn lên trong môi trường cực kỳ lạm dụng thường trở nên hung hăng, bất kể gen của họ là gì. Có hoạt động MAO-A cao có thể bảo vệ bạn khỏi số phận này, nhưng nó không phải là điều được trời cao đảm bảo. Ngược lại, khi trẻ được lớn lên trong môi trường yêu thương, ngay cả những trẻ có mức hoạt động MAO-A thấp cũng thường phát triển lành mạnh.

Gen của chúng ta không phải là bậc thầy điều khiển con rối mà biết kéo đúng dây vào đúng thời điểm để kiểm soát các sự kiện tạo ra chúng ta. Khi Harari viết về việc thay đổi sinh lý của nhân loại hay “chế tạo” con người trung thành hoặc thông minh, ông ấy đang bỏ qua nhiều cơ chế phi di truyền hình thành chúng ta.

Ví dụ, ngay cả một thứ được lập trình sẵn như sinh lý của chúng ta là các tế bào, chúng phân chia, di chuyển, quyết định số phận của mình, tổ chức các mô và cơ quan, nhưng kể cả tế bào cũng không được điều khiển bởi một mình gen. Vào những năm 1980, nhà khoa học J.L. Marx đã tiến hành một loạt thí nghiệm trên Xenopus (một loài ếch sống dưới nước có nguồn gốc từ châu Phi cận Sahara) và phát hiện ra rằng các sự kiện lý sinh “vụn vặt” (như phản ứng hóa học trong tế bào, áp lực cơ học bên trong và ngoài tế bào, và trọng lực) cũng có thể bật và tắt các gen, quyết định số phận của tế bào. Ông kết luận, cơ thể động vật là kết quả của điệu vũ phức tạp giữa các gen và các điều kiện biến động liên tục của vật lý và môi trường.

Hãy thử nào. Đọc sách từ một người như Harari, người ta có thể nghĩ rằng hành vi của những đứa trẻ sơ sinh chẳng hạn, hầu như chỉ do gen của chúng chi phối, vì những đứa trẻ không có “sự nuôi dưỡng” nào đáng để nói đến. Nhưng nghiên cứu cho thấy rằng những đứa trẻ 6 tháng tuổi của những người mẹ uống nhiều nước ép cà rốt trong ba tháng cuối thai kỳ sẽ thích ngũ cốc có hương vị cà rốt hơn những đứa trẻ khác. Những đứa trẻ này thích hương vị của cà rốt không phải vì gen “thích ăn cà rốt”. Khi người mẹ (mẹ đẻ hoặc người nuôi dưỡng) cho bú sữa mẹ, mùi vị của những gì họ ăn được phản ánh trong sữa mẹ, và em bé phát triển sở thích đối với những thức ăn này. Trẻ sơ sinh “thừa hưởng” sở thích ăn uống từ hành vi của mẹ.

Đã bao đời nay, các bà mẹ mới sinh ở Hàn Quốc được truyền mẹo uống canh rong biển, và phụ nữ Trung Quốc thì ngay sau khi sinh phải ngâm chân lợn với gừng và giấm. Trẻ em Hàn Quốc và Trung Quốc có thể thừa hưởng sở thích về hương vị đặc trưng của nền văn hóa mà không cần gen “ăn gừng” hoặc “muốn ăn dấm”.

Trong thế giới hiện đại này, bất kể chúng ta sống ở đâu, chúng ta đều tiêu thụ đường đã qua chế biến. Chế độ ăn nhiều đường kéo dài có thể dẫn đến các kiểu ăn uống bất thường và béo phì. Các nhà khoa học đã sử dụng các mô hình động vật và phát hiện ra một cơ chế phân tử khiến điều này xảy ra. Chế độ ăn nhiều đường kích hoạt một phức hợp protein gọi là PRC2.1, sau đó điều chỉnh biểu hiện gen để lập trình lại các tế bào thần kinh vị giác và giảm cảm giác ngọt, định hình động vật vào các khuôn mẫu ăn uống kém lành mạnh. Ở đây, thói quen ăn uống đang thay đổi biểu hiện gen — một ví dụ về “tái lập trình di truyền biểu sinh” — dẫn đến các lựa chọn thực phẩm gây hại.

Sự nuôi dưỡng định hình tự nhiên, và tự nhiên định hình cách nuôi dưỡng. Nó không phải là một đối ngẫu; nó giống dải Mobius hơn. Thực tế về “khả năng, nhu cầu và mong muốn của Homo sapiens” là phức tạp (và thanh lịch!) hơn nhiều so với những gì Harari miêu tả.

Các nhà di truyền học Eva Jablonka và Marion J. Lamb diễn giải điều đó rất hay trong cuốn sách Tiến hóa theo bốn chiều của họ:

“Ý tưởng cho rằng có một gen khiến người ta thích mạo hiểm, bị bệnh tim, béo phì, chọn tôn giáo, đồng tính luyến ái, nhút nhát, thiểu năng trí tuệ, hoặc bất kỳ khía cạnh nào khác của tâm trí hoặc cơ thể là vô căn cứ. Mặc dù nhiều bác sĩ tâm thần, nhà hóa sinh và các nhà khoa học khác không phải là nhà di truyền học (nhưng tự đánh bóng bản thân với những thành tựu chói lóa trong các vấn đề di truyền) vẫn sử dụng ngôn ngữ của gen như các nguyên nhân đơn giản và hứa với khán giả của họ những giải pháp nhanh chóng cho tất cả các loại vấn đề, họ không gì hơn là những tuyên truyền viên mà kiến ​​thức hoặc động cơ của họ đều đáng ngờ. “

Động cơ của Harari vẫn còn bí ẩn; nhưng những mô tả của ông về sinh học (và những dự đoán về tương lai) được dẫn dắt bởi một hệ tư tưởng phổ biến trong các nhà công nghệ ở Thung lũng Silicon như Larry Page, Bill Gates, Elon Musk và những người khác. Họ có thể có những ý kiến ​​khác nhau về việc liệu các thuật toán sẽ cứu rỗi hay tiêu diệt chúng ta. Nhưng họ đều tin vào sức mạnh siêu việt của tính toán kỹ thuật số. “Chúng ta đang đi tới một tương lai mà A.I. thông minh hơn nhiều so với con người và tôi nghĩ khung thời gian đó chỉ còn chưa đầy 5 năm nữa, ”Musk nói trong một cuộc phỏng vấn với New York Times năm 2020. Musk đã sai. Các thuật toán sẽ không lấy đi tất cả công việc của chúng ta, hoặc thống trị thế giới, hoặc sớm chấm dứt loài người (nếu có). Như chuyên gia về A.I François Chollet nói về khả năng của các thuật toán đạt được quyền tự chủ về nhận thức, “Hôm nay và trong tương lai gần, nó vẫn là thứ khoa học viễn tưởng.” Bằng cách lặp lại những câu chuyện của Thung lũng Silicon, nhà dân túy đội lốt khoa học Harari lần nữa thúc đẩy một cuộc khủng hoảng giả. Tệ hơn, ông ta đang chuyển hướng sự chú ý của chúng ta khỏi tác hại thực sự của các thuật toán và sức mạnh chưa được kiểm soát của công nghệ.

Trong chương cuối cùng của Homo Deus, Harari cho chúng ta biết về một tôn giáo mới, “Tôn giáo dữ liệu”. Những người thực hành tôn giáo này, “Dataist”, ông gọi họ như vậy, nhận thức toàn bộ vũ trụ như những luồng dữ liệu. Họ coi tất cả các sinh vật là bộ xử lý dữ liệu sinh hóa và tin rằng “thiên chức vũ trụ” của nhân loại là tạo ra một bộ xử lý dữ liệu toàn năng, tinh thông mọi điều và sẽ hiểu chúng ta rõ hơn ta tự hiểu mình. Trong chương kết của thiên truyện này, Harari dự đoán, những thuật toán sẽ thống trị mọi mặt đời sống, chúng quyết định ta sẽ cưới ai, làm nghề gì và bị cai trị như thế nào. (Thung lũng Silicon, có lẽ bạn đã đoán được, chính là trung tâm của Tôn giáo dữ liệu.)

Homo sapiens là một thuật toán lỗi thời”, Harari tuyên bố, thuật lại lời của các Dataists.

“Rốt cuộc, lợi thế của con người so với loài gà là gì? Chẳng qua thì ở người, thông tin chảy theo những mô hình phức tạp hơn nhiều so với ở gà. Con người tiếp thu nhiều dữ liệu hơn và xử lý nó bằng các thuật toán tốt hơn. Vậy nếu chúng ta có thể tạo ra một hệ thống có thể tiếp thu nhiều dữ liệu hơn và xử lý nó hiệu quả hơn con người, thì hệ thống đó sẽ không vượt trội hơn chúng ta theo đúng cách mà ta vượt trội hơn con gà ư?”

Nhưng một con người không phải là một con gà, hoặc vượt trội về mọi mặt so với một con gà. Trên thực tế, gà có thể “tiếp thu nhiều dữ liệu hơn” so với con người và “xử lý nó tốt hơn” – ít nhất là trong lĩnh vực thị giác. Võng mạc của con người có các tế bào cảm thụ ánh sáng nhạy cảm với các bước sóng màu đỏ, xanh lam và xanh lục. Võng mạc của gà có những tế bào này, cộng với các tế bào hình nón cho các bước sóng tím (bao gồm một số tia cực tím), cộng với các thụ thể chuyên biệt có thể giúp chúng theo dõi chuyển động tốt hơn. Bộ não của chúng được trang bị để xử lý tất cả thông tin bổ sung này. Thế giới của loài gà là một địa phận xa hoa đầy màu sắc huyền ảo mà chúng ta thậm chí không thể hiểu được. Quan điểm của tôi không phải là con gà giỏi hơn con người — đây có phải cuộc thi đâu — mà những con gà là “gà” duy nhất theo cách mà chúng ta là “con người” duy nhất.

Cả gà và người đều không phải là thuật toán đơn thuần. Bộ não của chúng ta có một cơ thể, và cơ thể đó nằm trong một thế giới. Các hành vi của chúng ta xuất hiện do các hoạt động thế gian và thể xác của chúng ta. Chúng sinh không chỉ tiếp thu và xử lý các luồng dữ liệu trong môi trường của mình; chúng ta liên tục thay đổi và tạo ra môi trường của riêng ta — và của nhau — một quá trình được gọi là “xây dựng ngách” trong sinh học tiến hóa. Khi một con hải ly xây dựng một con đập trên suối, nó sẽ tạo ra một cái hồ, và tất cả các sinh vật khác giờ đây phải sống trong một thế giới nơi có một cái hồ. Hải ly có thể tạo ra các vùng đất ngập nước tồn tại trong nhiều thế kỷ, thay đổi áp lực chọn lọc mà con cháu của chúng phải chịu, có khả năng gây ra sự thay đổi trong quá trình tiến hóa. Homo sapiens có tính linh hoạt vô song; chúng ta có một khả năng phi thường để thích ứng với môi trường và cũng có thể sửa đổi chúng. Hành vi sống của ta không chỉ phân biệt ta với các thuật toán; chúng khiến các thuật toán gần như không thể dự đoán chính xác các hành vi xã hội của ta, chẳng hạn như ta sẽ yêu ai, ta sẽ làm tốt như thế nào trong các công việc tương lai,3 hoặc liệu chúng ta có khả năng phạm tội hay không.

Harari cẩn thận trong việc tạo dựng hình tượng cho mình như một người ghi chép khách quan. Ông ấy rất thống thiết khi nói với chúng ta rằng ông đang trình bày thế giới quan của những người theo thuyết Dataists, chứ không phải của riêng mình. Nhưng sau đó ông ta lại lén lén lút lút. Ông nói, “Quan điểm của người theo chủ nghĩa Dataist“ có thể khiến bạn coi đó là một khái niệm rìa lập dị nào đó, nhưng trên thực tế, nó đã chinh phục hầu hết các cơ sở khoa học”. Khi trình bày thế giới quan của Dataist như là kết luận (đã “chinh phục hầu hết các cơ sở khoa học”), ông bảo ta rằng con người “khách quan” mà nói thì đúng là thuật toán và đang tiến đến sự lỗi thời – với tư cách là những người thụ động tiếp nhận các quyết định được đưa ra bởi các thuật toán tốt hơn. Đây là điều không thể tránh khỏi bởi vì nó gắn liền với nhân loại. Quay sang phần chú thích ủng hộ tuyên bố sâu rộng này, chúng ta thấy rằng trong số bốn cuốn sách mà ông ấy trích dẫn, ba cuốn được viết bởi những người không phải là nhà khoa học – một nhà phát hành âm nhạc, một người dự báo xu hướng và một nhà xuất bản tạp chí. (4)

Không có gì được định trước về số phận của loài người. Quyền tự chủ của chúng ta đang bị xói mòn không phải vì nghiệp vũ trụ, mà vì một mô hình kinh tế mới do Google phát minh và Facebook hoàn thiện — một dạng chủ nghĩa tư bản đã tìm ra cách để thao túng chúng ta vì tiền. Nhà khoa học xã hội Shoshana Zuboff đã đặt cho mô hình kinh tế này cái tên “chủ nghĩa tư bản giám sát”. Các tập đoàn tư bản giám sát — Google, Facebook, Amazon, Microsoft và những người khác — xây dựng các nền tảng kỹ thuật số mà chúng ta ngày càng dựa dẫm nhiều hơn để sống, làm việc và giải trí. Họ theo dõi các hoạt động trực tuyến của chúng ta một cách tỉ mỉ đến từng chi tiết và sử dụng thông tin để tác động lên các hành vi của ta nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Như một sản phẩm phụ, các nền tảng kỹ thuật số của họ đã giúp tạo ra các “buồng vang thông tin” (echo chambers) dẫn đến sự phủ nhận về biến đổi khí hậu, sự hoài nghi khoa học và sự phân cực chính trị ngày càng lan rộng. Bằng cách đặt tên cho kẻ thù và mô tả nó như một phát minh của con người – không phải là chân lý tự nhiên hay công nghệ tất yếu – Zuboff cho chúng ta một cách để chống lại nó. Như bạn có thể tưởng tượng, Zuboff chẳng được như Harari, ông không phải là một nhân vật được yêu thích ở Thung lũng Silicon.

Vào tháng 10 năm 2021, Harari phát hành Tập 2 bản truyện tranh chuyển thể của Sapiens. Tiếp theo là sách dành cho trẻ em của Sapiens, Sapiens Live, một trải nghiệm sống động và một chương trình truyền hình nhiều mùa lấy cảm hứng từ Sapiens. Nhà tiên tri theo chủ nghĩa dân túy của chúng ta không ngừng nỗ lực tìm kiếm những người theo dõi mới, những đỉnh cao mới về danh tiếng và tầm ảnh hưởng.

Harari đã hấp dẫn chúng ta bằng cách kể chuyện của ông ấy, nhưng xem xét kỹ hồ sơ của ông cho thấy ông đã hy sinh khoa học cho chủ nghĩa giật gân, thường mắc lỗi nghiêm trọng về tính xác thực và miêu tả những suy đoán như thể điều chắc chắn. Cơ sở mà ông ta đưa ra các tuyên bố của mình rất mù mờ, vì ông ta hiếm khi cung cấp các chú thích hoặc tài liệu tham khảo đầy đủ và đặc biệt keo kiệt trong việc thừa nhận các nhà tư tưởng(5), những người đã hình thành các quan điểm mà ông ta trình bày như của riêng. Và nguy hiểm hơn hết, ông ta củng cố lời nói của những nhà tư bản giám sát, cho họ quyền tự do thao túng các hành vi của chúng ta vì lợi ích thương mại. Để tự cứu mình khỏi cuộc khủng hoảng hiện tại và những người đang ở phía trước, chúng ta phải từ chối hoàn toàn thứ khoa học dân túy nguy hiểm của Yuval Noah Harari.

Darshana Narayanan

Yến Nhi dịch

Bài gốc: https://www.currentaffairs.org/2022/07/the-dangerous-populist-science-of-yuval-noah-harari

Nghe một tập podcast của Current Affairs với tác giả về bài viết này tại đây.

  1. Mối lo ngại của tôi về tính xác thực của tác phẩm của Harari lặp lại lời phê bình về một cuốn sách bán chạy khác — Turning Points for Nations in Crisis của Jared Diamond — của tác giả Anand Giridharadas. Giridharadas hỏi Diamond, “Nếu chúng ta không thể tin tưởng anh ở những điều vừa và nhỏ, làm sao chúng ta có thể tin tưởng anh ở cuốn sách dài 30.000 feet — về những tuyên bố lớn, khó kiểm tra?” Giridharadas cũng chỉ ra nhu cầu kiểm tra tính xác thực một cách chuyên nghiệp đối với sách phi hư cấu vốn không phải là điều thường gặp, điều này khiến tôi bàng hoàng. ↩
  2. Một đoạn trích tương tự trong cuốn sách Homo Deus: Lược sử tương lai của Harari năm 2017: “Một khi có thể sửa đổi những gen chết người, tại sao lại gặp rắc rối khi chèn một số DNA ngoại lai, khi chúng ta chỉ có thể viết lại mã và biến một điều nguy hiểm như gen đột biến thành lành tính? Sau đó, chúng ta có thể bắt đầu sử dụng cơ chế tương tự để sửa chữa không chỉ các gen gây chết người mà còn cả những gen gây ra các bệnh ít chết người hơn, đối với chứng tự kỷ, thiểu năng và béo phì. ” ↩
  3. Không có bằng chứng đã qua bình duyệt cho thấy các thuật toán có thể dự đoán hiệu suất công việc, bất chấp hàng triệu người đang được sàng lọc bởi các thuật toán cho công việc tại các công ty như McDonald’s, Kraft-Heinz, Boston Consulting Group và Swarovski. Nhà khoa học máy tính Princeton Arvind Narayanan đã công khai điểm mặt các công ty cung cấp dịch vụ sàng lọc việc làm theo thuật toán — HireVue và Pymetrics là hai công ty hàng đầu — vì “treo đầu dê bán thịt chó”. ↩
  4. Những cuốn sách mà Harari trích dẫn: Kevin Kelly, What Technology Wants (New York: Viking Press, 2010); César Hidalgo, Why Information Grows: The Evolution of Order, from Atoms to Economies (New York: Sách cơ bản, 2015); Howard Bloom, Global Brain: The Evolution of Mass Mind from the Big Bang to the 21st Century (Hoboken: Wiley, 2001); Shawn DuBravac, Digital Destiny (Washington: Regnery Publishing, 2015.). ↩
  5. Một độc giả bình thường khi xem bài viết của Harari sẽ nghĩ rằng tất cả các ý tưởng đến từ một mình ông ta, nhưng các khuôn khổ tư duy của Harari thường gợi nhớ đến những người tiền bối. Ví dụ: sự so sánh của anh ấy về các hệ tư tưởng tôn giáo và thế tục với trò chơi Pokémon Go giống một cách kỳ lạ so với sự so sánh trước đó của nhà triết học người Slovenia Slavoj Žižek, trong cuốn sách năm 2017 của ông ấy Incontinence of the Void: Economico-Philosophical Spandrels, và đã được thảo luận trước đó trong các bài giảng. Trong cuốn sách Homo Deus năm 2017 của mình, Harari dành cả một chương cho “Dataism”, nhưng không thừa nhận nhà báo David Brooks (người đã đặt ra thuật ngữ data-ism) hoặc Steve Lohr (người đã xuất bản cuốn sách năm 2015 có tựa đề Data-ism). ↩