Thế giới luôn phải sửng sốt với tốc độ chuyển mình phát triển của Trung Quốc trong gần 50 năm qua, tuy nhiên càng tìm hiểu thêm về quá trình phát triển của Trung Quốc, tôi càng thấm thía được chữ “Đánh đổi” – Đánh đổi giữa tăng trưởng và công bằng, đánh đổi kinh tế và môi trường, thậm chí đánh đổi giữa mục tiêu dân tộc và sinh mạng người dân. Trung Quốc được như ngày nay do lãnh đạo dám đánh đổi, và Trung Quốc có những vấn đề như hiện tại cũng là do lãnh đạo đã đánh đổi.
Tôi đã cùng các cô chú, anh chị độc giả Bộ sách Nghiên cứu Chính trị – Kinh tế Trung Quốc bàn luận về ý tưởng này trong sự kiện ngày 4/10 vừa qua. Tôi xin chia sẻ chi tiết hơn về hành trình đánh đổi của Trung Quốc hiện đại, nguyên nhân dẫn đến các quyết định và hệ quả đó, và thảo luận các điểm có thể rút ra từ quá trình vận hành của Trung Quốc trong vòng 3 phần.
Bài viết này (Phần 1 của loạt 3 phần) sẽ phân tích những biểu hiện điển hình về sự đánh đổi trong chính sách Trung Quốc, thông qua các trường hợp lịch sử nổi bật như Đại Nhảy Vọt, cải cách thời Đặng Tiểu Bình, chính sách một con, sự kiện Thiên An Môn, cho đến các chiến lược phát triển công nghệ – môi trường – bất động sản những thập niên gần đây. Đồng thời, chúng ta cũng thử so sánh cách các quốc gia khác (Hoa Kỳ, châu Âu, Singapore, v.v.) đã ứng phó với các mâu thuẫn tương tự như thế nào. Cuối cùng, chúng ta sẽ đặt ra câu hỏi: vì sao Trung Quốc chấp nhận những đánh đổi đó– phải chăng do tham vọng quyền lực của lãnh đạo, do hoàn cảnh bắt buộc của nước đang phát triển, do văn hóa chính trị hay hệ thống toàn trị? (Các giả thuyết này sẽ được bàn sâu hơn ở Phần 2.)
> Xem thêm: Bản ghi sự kiện giao lưu “Giao thương & Công nghệ – Cách Trung Quốc thúc đẩy & điều tiết”
Đại Nhảy Vọt (1958–1962): Tham vọng công nghiệp hóa và cái giá nhân mạng
Một trong những ví dụ khốc liệt nhất về đánh đổi trong chính sách ở Trung Quốc là Đại Nhảy Vọt thời Mao Trạch Đông. Chiến dịch này (1958–1962) nhằm công nghiệp hóa cấp tốc đất nước, nhưng đã trả giá bằng thảm họa nhân đạo chưa từng có. Mao đặt ra những chỉ tiêu sản lượng thép và lương thực phi thực tế, huy động nông dân vào các công xã sản xuất lớn và lò luyện thép mini tại mỗi làng. Dưới áp lực chính trị, cán bộ địa phươngbáo cáo số liệu ảođể làm đẹp thành tích, trong khi ngoài đồng ruộng, mùa màng thất bát dẫn đến nạn đói lan rộng. Mặc cho các dấu hiệu cảnh báo (thậm chí Liên Xô trước đó đã từng trả giá vì tập thể hóa nông nghiệp thất bại), Mao vẫn kiên quyết theo đuổi utopia của mình. Kết quả làthảm họa: ước tính khoảng 30 triệu người Trung Quốc đã chết đói – nạn đói kinh hoàng nhất trong lịch sử ghi nhận.
Mao thậm chí từng phát biểu (năm 1957) rằng ông “không sợ chiến tranh hạt nhân”, bởi nếu nửa dân số Trung Quốc có chết thì nửa còn lại vẫn còn 300 triệu người – một minh chứng lạnh lùng cho tư tưởng “đánh đổi vì đại cục” của ông. Đại Nhảy Vọt cho thấy rõ tâm thức lãnh đạo thời bấy giờ: mục tiêu quốc gia được đặt cao hơn sinh mệnh của từng cá nhân. Thông tin về thảm kịch bị bưng bít chặt chẽ – sự kiểm soát truyền thông và sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông đã che giấu quy mô thực sự của nạn đói suốt nhiều năm.
Cải cách thời Đặng Tiểu Bình: “Để một bộ phận làm giàu trước”
Sau thời Mao, Đặng Tiểu Bình cuối thập niên 1970 thúc đẩy cải cách và mở cửa, mang lại chuyển biến kinh tế sâu sắc cho Trung Quốc. Tuy nhiên, đi kèm theo đó là một sự đánh đổi khác: chấp nhận bất bình đẳng và tham nhũng để đạt tăng trưởng. Đặng Tiểu Bình nổi tiếng với câu nói “cho phép một số người và một số nơi giàu lên trước” như động lực thúc đẩy phát triển, đồng nghĩa với việc ông ưu tiên tốc độ phát triển hơn là công bằng xã hội – miễn sao kinh tế “cất cánh” thì chấp nhận khoảng cách giàu nghèo tăng lên và thậm chí nhắm mắt trước nạn tham nhũng trong giai đoạn đầu chuyển đổi.
Chính sách này đã đem lại tăng trưởng ngoạn mục, hàng trăm triệu người thoát khỏi đói nghèo. Song đi cùng đó là bất bình đẳng thu nhập vùng miền, thành thị – nông thôn tăng vọt – cái giá phải trả để hiện đại hóa nhanh chóng.
Đặng Tiểu Bình được coi là người thực dụng. Ông từng nói “mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”, hàm ý kết quả quan trọng hơn màu cờ ý thức hệ, nhưng cũng có thể hiểu là ưu tiên hiệu quả kinh tế hơn là thủ tục hay công bằng. Đặng biết rằng việc thả lỏng một phần sẽ kéo theo tệ “quan hệ” (guanxi) và tham nhũng trong nền kinh tế thị trường mới nổi, nhưng ông sẵn sàng chấp nhận miễn sao đạt mục tiêu phát triển.
Một ví dụ khác về sự lạnh lùng trong tính toán của Đặng Tiểu Bình là quyết định phát động chiến tranh biên giới Việt–Trung năm 1979. Ông huy động quân tấn công Việt Nam với danh nghĩa “dạy cho Việt Nam một bài học” vì Việt Nam đưa quân vào Campuchia, nhưng đồng thời cũng nhằm phô trương với Hoa Kỳ để cải thiện vị thế chiến lược Trung Quốc. Cuộc chiến chớp nhoáng này khiến hàng nghìn binh sĩ thiệt mạng và quan hệ với láng giềng rạn nứt, nhưng Đặng chấp nhận hy sinh đó để ghi điểm với Washington và từ đó tranh thủ được sự ủng hộ của phương Tây cho công cuộc hiện đại hóa của Trung Quốc.
Chính sách một con (1979–2015): Kiểm soát dân số và hệ lụy lâu dài
Trước viễn cảnh bùng nổ dân số đe dọa nguồn lực quốc gia cuối thập niên 1970, Trung Quốc áp dụng một biện pháp mạnh chưa từng có: chính sách một con, với hy vọng rằng hạn chế sinh sản trong ngắn hạn sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho kinh tế và xã hội. Chính sách một con đã góp phần kiềm chế tốc độ gia tăng dân số, giúp Trung Quốc tránh được nguy cơ dân số vượt quá khả năng nuôi sống, và nâng cao chất lượng lao động.
Tuy nhiên, cái giá phải trả về lâu dài của chính sách này lại rất nặng nề. Việc hạn chế sinh một con được thực thi một cách hà khắc, bằng cả biện pháp phạt tiền, cưỡng chế triệt sản. Nhiều người không muốn nộp phạt hoặc không muốn có con gái nên đã phá thai. Chính sách cứng rắn đó đã “quá hiệu quả” đến mức tỷ lệ sinh sụt giảm nghiêm trọng suốt hơn ba thập kỷ (chỉ khoảng 1,3-1,6 con/phụ nữ trong những năm 2000-2010, so với mức 2,1 cần thiết để duy trì dân số). Dân số Trung Quốc già đi nhanh chóng do lớp trẻ sinh ra không đủ thay thế số người già qua đời. Tới thập niên 2010, Trung Quốc bắt đầu thiếu hụt lực lượng lao động trẻ để gánh vác nền kinh tế và phụng dưỡng số người già đang tăng vọt, báo hiệu một khủng hoảng dân số nghiêm trọng.
Chưa hết, tác động ngoài ý muốn khác là mất cân bằng giới tính. Do truyền thống ưa thích con trai, rất nhiều gia đình tìm cách loại bỏ thai nhi gái (dù bị cấm) dẫn đến tỷ số giới tính khi sinh lên tới khoảng 118 bé trai/ 100 bé gái – mức chênh lệch cao nhất thế giới. Cả một thế hệ con một (thế hệ sinh sau 1980) cũng phải đối mặt những áp lực đặc thù: họ không có anh chị em, nhưng đồng thời phải gánh kỳ vọng rất lớn từ cha mẹ, và sau này một cặp vợ chồng trẻ phải lo cho 4 bố mẹ già (gánh nặng “4-2-1”).
Có thể nói, lãnh đạo Trung Quốc thời kỳ đó đã đánh đổi phúc lợi của các thế hệ tương lai để đổi lấy lợi ích trước mắt về kinh tế – xã hội (tránh bùng nổ dân số, cải thiện mức sống). Bộ máy kế hoạch hóa gia đình của Trung Quốc trong nhiều năm hết sức bảo vệ chính sách này, giảm nhẹ các tác dụng phụ và nhấn mạnh rằng biện pháp này cứu Trung Quốc khỏi cảnh đói kém. Chỉ đến năm 2015, khi những hệ lụy tiêu cực đã quá rõ ràng (dân số bắt đầu suy giảm, kinh tế lo thiếu lao động trẻ, xã hội lo “già hóa”), chính phủ Trung Quốc mới chính thức bãi bỏ chính sách một con. Song khi đó, tâm lý ngại sinh nhiều con đã ăn sâu, dẫn đến tình trạng “tỷ suất sinh thấp kỷ lục khó đảo ngược” hiện nay.
Thiên An Môn 1989: Ổn định chính trị đánh đổi sinh mạng và tự do
Có lẽ không có sự kiện nào thể hiện rõ ưu tiên ổn định chính trị bằng mọi giá của lãnh đạo Trung Quốc hơn việc đàn áp phong trào tại Thiên An Môn năm 1989. Mùa xuân năm đó, hàng chục nghìn sinh viên và người dân tập trung tại Quảng trường Thiên An Môn (Bắc Kinh) đòi hỏi cải cách chính trị, phản đối tham nhũng, đòi tự do ngôn luận. Phong trào lan rộng và kéo dài suốt gần hai tháng, trở thành mối thách thức nghiêm trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trước áp lực đòi hỏi thay đổi, giới lãnh đạo Trung Quốc – đứng đầu là Đặng Tiểu Bình lúc bấy giờ – đã quyết định dùng biện pháp mạnh để dẹp yên bất ổn. Rạng sáng ngày 4/6/1989, chính quyền điều động quân đội và xe tăng tiến vào trung tâm Bắc Kinh, nổ súng đàn áp người biểu tình tập trung ở Thiên An Môn. Cuộc trấn áp đẫm máu khiến hàng trăm, có thể hàng nghìn người thiệt mạng (không có con số chính xác do phong tỏa thông tin).
Việc hy sinh sinh mạng người biểu tình và chấp nhận mang tiếng xấu với quốc tế được ban lãnh đạo Trung Quốc khi đó coi là cái giá cần thiết để “tránh hỗn loạn”. Họ lập luận rằng nếu để biểu tình kéo dài, đất nước sẽ rơi vào bất ổn giống như Liên Xô và Đông Âu (đang trải qua các biến động dẫn đến sụp đổ chính quyền cộng sản). Do vậy, dập tắt phong trào bằng mọi giá là lựa chọn “ít xấu nhất” để duy trì ổn định. Sau sự kiện, bộ máy tuyên truyền Trung Quốc tích cực biện hộ cho hành động trấn áp. Theo luận điệu chính thức, biện pháp “kiên quyết” (tức là đàn áp đẫm máu) của Đặng Tiểu Bình là cần thiết để mang lại “những thập kỷ ổn định và phồn vinh” sau này.
Ngày nay, phần lớn giới trẻ Trung Quốc không hề được học hay biết gì về sự kiện 4/6/1989, ngoài những mô tả mơ hồ như một “biến cố” nhỏ. Bài học rút ra là: bất cứ khi nào đối mặt thách thức nghiêm trọng đến quyền lực, Bắc Kinh sẽ sẵn sàng sử dụng bạo lực, sẵn sàng lấy mạng sống của một nhóm người để bảo vệ lợi ích của nhóm khác.
Đánh đổi Môi trường để Tăng trưởng (những năm 2000)
Với dân số khổng lồ và nền công nghiệp hóa muộn, Trung Quốc trong những năm 1990-2000 thường chọn phương châm “tăng trưởng trước, dọn dẹp sau”. Các vùng giàu than, khoáng sản hoặc sản xuất công nghiệp phát triển mạnh – nhưng phải trả giá bằng ô nhiễm nghiêm trọng gây hại cho cộng đồng địa phương. Các thành phố ngột ngạt vì khói bụi, sông ngòi nhiễm độc và những “làng ung thư” trở nên phổ biến. Lãnh đạo ngầm cho phép sự hy sinh môi trường này, ưu tiên tăng trưởng GDP hai con số để nâng cao mức sống toàn quốc, mặc dù một số khu vực phải gánh chịu hậu quả sức khỏe nghiêm trọng. Trong nhiều năm, các quan chức địa phương chủ yếu được thăng chức dựa trên thành tích kinh tế chứ không phải quản lý môi trường, khiến họ có động cơ phớt lờ thiệt hại sinh thái.
Quy mô của sự đánh đổi này là rất lớn. Theo một ước tính, thiệt hại môi trường đã làm giảm 3-10% tổng thu nhập quốc dân của Trung Quốc do chi phí y tế và năng suất lao động giảm. Riêng ô nhiễm không khí ước tính gây ra 1,2 triệu ca tử vong sớm ở Trung Quốc mỗi năm. Một số cộng đồng (thường là người nghèo nông thôn) đang “chết vì ô nhiễm” trong khi cả nước trở nên giàu có hơn. Theo thời gian, điều này trở thành nguồn cơn phẫn nộ của công chúng – các cuộc biểu tình phản đối ô nhiễm từ nhà máy và khói bụi đã thúc đẩy chính phủ trung ương cuối cùng phải tuyên bố “chiến tranh chống ô nhiễm” vào khoảng năm 2014.
Tuy nhiên, mô hình này vẫn tồn tại trong nhiều thập kỷ: sinh thái và sức khỏe cộng đồng đã bị hy sinh một cách có chủ ý để đạt được công nghiệp hóa nhanh chóng. Chỉ khi cuộc khủng hoảng môi trường đe dọa đến sự ổn định rộng hơn (và tính bền vững kinh tế) thì các nhà lãnh đạo mới chuyển sang thực thi nghiêm ngặt hơn. Ngày nay, Trung Quốc đang cố gắng cân bằng giữa tăng trưởng và cắt giảm ô nhiễm, trước hết ở các thành phố lớn. Tuy nhiên, tư duy hy sinh trước đó đã để lại di sản là không khí, nước bị suy thoái và lòng tin bị mất – một ví dụ về hậu quả ngoài ý muốn khi lợi ích ngắn hạn lấn át phúc lợi lâu dài.
Chiến lược công nghệ: Đánh đổi sở hữu trí tuệ và cạnh tranh vì mục tiêu tự lực
Một trụ cột trong tham vọng trỗi dậy của Trung Quốc là trở thành cường quốc công nghệ. Để đạt mục tiêu này, lãnh đạo Trung Quốc đã triển khai nhiều chiến lược quyết liệt, bao gồm cả những bước đi gây tranh cãi và đánh đổi lợi ích của đối tác nước ngoài cũng như cạnh tranh thị trường nội địa.
Thứ nhất, từ thập niên 1990–2000, Trung Quốc thực hiện chính sách “dùng thị trường đổi công nghệ” đầy táo bạo. Chính phủ thu hút các công ty nước ngoài vào thị trường khổng lồ của mình nhưngđặt điều kiện: họ phải chia sẻ công nghệ hoặc lập liên doanh với doanh nghiệp Trung Quốc. Nói cách khác, quyền tiếp cận thị trường Trung Quốc được đem ra trao đổi để lấy bí quyết kỹ thuật từ các nước phát triển. Ví dụ, các hãng ô tô muốn bán xe ở Trung Quốc buộc phải liên doanh với công ty quốc doanh Trung Quốc và chuyển giao thiết kế, công nghệ sản xuất cho phía Trung Quốc. Nhiều công ty đa quốc gia cảm thấy “không còn lựa chọn” nên đành chấp nhận thỏa hiệp này, bởi sức hấp dẫn của thị trường 1,4 tỷ dân quá lớn. Tuy nhiên, từ góc nhìn phương Tây, chiến lược trên là một sự đánh đổi phi đạo đức: Trung Quốc hy sinh thông lệ và luật lệ quốc tế về bảo vệ sở hữu trí tuệ để đổi lấy lợi ích cho mình. Không ít ý kiến ở Mỹ và châu Âu lên án Trung Quốc “ép buộc chuyển giao công nghệ” và thậm chí ăn cắp sở hữu trí tuệ một cách có hệ thống.
Mặc dù vấp phải chỉ trích và nguy cơ xung đột thương mại, giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn chấp nhận đánh đổi: họ sẵn sàng chịu tiếng xấu và nguy cơ kiện tụng, miễn là nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ nội địa. Thực tế cho thấy chiến lược này đã đạt mục đích phần nào – sau hai thập kỷ, Trung Quốc hình thành những công ty công nghệ hàng đầu có thể cạnh tranh với phương Tây (từ lĩnh vực đường sắt cao tốc đến viễn thông 5G). Song cái giá đi kèm là làm xấu quan hệ thương mại với các nước phát triển, góp phần tạo cái cớ cho các cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung gần đây.
Thứ hai, trong nội tại nền kinh tế, Trung Quốc cũng có chiến lược công nghệ – công nghiệp đầy tham vọng và không ngại đánh đổi cạnh tranh thị trường để thực hiện. Bước sang thập niên 2010, chính phủ Trung Quốc chủ trương nuôi dưỡng các “nhà vô địch quốc gia”– những doanh nghiệp khổng lồ có thể dẫn dắt ngành công nghệ và vươn ra toàn cầu. Bằng cách bảo hộ thị trường nội địa và hạn chế cạnh tranh nước ngoài, Trung Quốc đã tạo điều kiện cho sự vươn lên của các tập đoàn công nghệ như Alibaba, Tencent, Baidu cũng như duy trì các doanh nghiệp nhà nước độc quyền trong lĩnh vực thương mại điện tử, viễn thông, tài chính. Quan điểm của nhà nước là: có vài công ty tầm cỡ siêu lớn sẽ giúp Trung Quốc cạnh tranh quốc tế nhanh hơn. Quả thực, nhờ “bệ đỡ” chính sách, Alibaba, Tencent… đã thống trị các mảng dịch vụ internet trong nước, cung cấp sản phẩm cho hàng trăm triệu người dùng và đạt giá trị thị trường khổng lồ.Mặt lợilà Trung Quốc xây dựng được những hệ sinh thái công nghệ riêng, không phụ thuộc phương Tây, và khai thác quy mô dân số của mình.
Mặt trái là thị trường trong nước trở nên kém cạnh tranh, nhiều doanh nghiệp nhỏ bị chèn ép hoặc bị thâu tóm, người cung cấp dịch vụ không được bảo đảm quyền lợi. Đặc biệt, quyền lực kinh tế tập trung vào tay một số đại gia tư nhân, tạo ra những “vương quốc” trong lĩnh vực công nghệ có khả năng ảnh hưởng xã hội lớn (qua dữ liệu người dùng, truyền thông mạng). Thời gian đầu, chính quyền chấp nhận đánh đổi: họ để các đại công ty này lớn mạnh tự do, xem đó như động lực đổi mới sáng tạo và cũng là nguồn dữ liệu quý giá cho nhà nước. Thế nhưng, đánh đổi này không bền vững – đến cuối những năm 2010, các hệ lụy bắt đầu rõ ràng: giá nhà đất đã tăng quá cao, chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn, và ảnh hưởng của các công ty công nghệ đôi khi đe dọa vai trò kiểm soát của Đảng.
Đánh đổi để ổn định thị trường quá nóng
Bước sang thập niên 2020, Chủ tịch Tập Cận Bình đã phát động một loạt cuộc chỉnh đốn mạnh tay đối với chính các lĩnh vực mà nhà nước từng khuyến khích tăng trưởng nóng – đặc biệt là công nghệ internet và bất động sản. Những cuộc đàn áp về chính sách này thể hiện rất rõ triết lý “hy sinh lợi ích ngắn hạn để đổi lấy ổn định lâu dài”.
Trong lĩnh vực công nghệ, từ cuối năm 2020, chính quyền mở chiến dịch kiềm chế các đại tập đoàn công nghệ và các công ty giáo dục tư nhân. Danh nghĩa là để chống “sự bành trướng hỗn loạn của tư bản” và thúc đẩy “thịnh vượng chung”– nghĩa là đảm bảo khu vực tư nhân không gây bất công hoặc rủi ro cho xã hội. Trung Quốc đột ngột dừng vụ IPO 37 tỷ USD của Ant Group (công ty tài chính công nghệ thuộc Alibaba) ngay trước giờ chào sàn, ban hành hàng loạt quy định chống độc quyền, siết chặt quản lý tài chính trực tuyến và bảo mật dữ liệu, đồng thời cấm hoàn toàn hoạt động dạy thêm tư nhân (khiến cả một ngành công nghiệp tỷ đô sụp đổ chỉ sau một đêm). Những động thái dồn dập này đã gây ratổn thất kinh tế lớn: thị trường chứng khoán Trung Quốc chứng kiến hàng loạt cổ phiếu công nghệ lao dốc, hàng trăm tỷ USD giá trị vốn hóa “bốc hơi”. Chẳng hạn, định giá của Ant Group sau khi bị đình chỉ và tái cấu trúc đã giảm khoảng 70% so với đỉnh.Niềm tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước lung lay mạnh. Các công ty công nghệ lớn phải đóng băng tuyển dụng, sa thải nhân viên, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp thanh niên ở đô thị vượt 21% – mức cao kỷ lục vào giữa năm 2023. Đà tăng trưởng của ngành công nghệ cao Trung Quốc cũng chững lại, góp phần vào bức tranh kinh tế chung ảm đạm hơn.
Về mục đích, chính quyền tuyên bố chiến dịch này nhằm giảm bất bình đẳng (ví dụ: cấm dạy thêm để giảm gánh nặng học phí cho phụ huynh) và định hướng các công ty tập trung vào mục tiêu chiến lược quốc gia (như phát triển chip bán dẫn, AI, thay vì chỉ chạy theo lợi nhuận thương mại). Chiến dịch cũng nằm trong chương trình “thịnh vượng chung” mà ông Tập đề xướng, nhằm tái phân phối lại thành quả phát triển và kiềm chế mặt trái của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích phương Tây hoài nghi rằng động cơ chính trị cũng rất lớn: Đảng Cộng sản muốn khẳng định rằng các đại gia công nghệ không được vượt quá tầm kiểm soát của Đảng. Việc “nhắc nhở Jack Ma ai là chủ” – qua vụ trấn áp Alibaba – được xem như lời cảnh báo tới mọi tỷ phú Trung Quốc rằng Đảng mới là người quyết định luật chơi. Dù lý do là gì, không thể phủ nhận cuộc đàn áp công nghệ đã gây tổn thương kinh tế ngắn hạn đáng kể – một sự hy sinh có tính toán của ban lãnh đạo để đổi lấy mục tiêu tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng bớt rủi ro hơn về lâu dài.
Trong lĩnh vực bất động sản, chính quyền cũng thực hiện một bước ngoặt chính sách tương tự. Sau nhiều năm bùng nổ ngành xây dựng góp phần tăng trưởng (có giai đoạn bất động sản và các ngành liên quan chiếm tới 20–30% GDP Trung Quốc), thị trường nhà đất Trung Quốc tích tụ nhiều rủi ro: giá nhà ở cao ngất ngưởng khiến giới trẻ khó mua nhà, các công ty địa ốc mắc nợ chồng chất đe dọa hệ thống tài chính. Năm 2020,chính quyền ông Tập Cận Bình đề ra quy định “ba lằn ranh đỏ”– tức các giới hạn nghiêm ngặt về tỷ lệ vay nợ và đòn bẩy tài chính đối với doanh nghiệp bất động sản – buộc tập đoàn khổng lồđang vay nợ quá mức Evergrande phải cắt giảm nợ gấp hoặc đối mặt mất thanh khoản. Chính sách này chẳng khác nào “vỗ béo rồi cấm ăn”: trước đó các công ty như Evergrande đã mở rộng nhờ vay nợ dễ dãi, nay đột ngột bị siết hầu bao. Hậu quả nhãn tiền: Evergrande rơi vào khủng hoảng, vỡ nợ trái phiếu vào năm 2021, kéo theo nguy cơ domino tài chính và khiến hàng trăm dự án nhà ở dở dang trên khắp Trung Quốc. Nhiều người mua nhà trung lưu lâm vào cảnh“tiền mất nhà chưa có”. Các doanh nghiệp khác như Country Garden cũng lao đao. Bắc Kinh quyết định không cứu Evergrande, sẵn sàng để nó phá sản có trật tự, phát tín hiệu rằng thời đại được bảo kê đã chấm dứt. Chính phủ tuyên bố mục tiêu là hạ nhiệt bong bóng nhà đất: đưa giá nhà về mức hợp lý, kiềm chế nợ xấu để tránh sụp đổ hệ thống – tất cả nằm trong định hướng “thịnh vượng chung” và phát triển bền vững, công bằng hơn. Giá nhà quá cao ở đô thị đã bị coi là cản trở phúc lợi xã hội (người trẻ ngại kết hôn sinh con vì không mua nổi nhà) và nguồn bất mãn (khoảng cách giàu nghèo do đầu cơ nhà đất).
Dĩ nhiên, tác dụng phụ ngắn hạn là không nhỏ: thị trường bất động sản đóng băng, kéo theo kinh tế giảm tốc (do đầu tư xây dựng giảm), nhiều địa phương thất thu ngân sách (vì trước giờ trông vào bán đất), hàng triệu lao động xây dựng mất việc, người dân mất niềm tin vào bất động sản như kênh giữ tiền an toàn. Thế nhưng, từ góc nhìn Bắc Kinh, “đau một lần rồi thôi”: họ tin rằng hy sinh cục bộ này sẽ ngăn chặn một đổ vỡ còn lớn hơn trong tương lai. Nếu tiếp tục để bong bóng phình to, một khi vỡ sẽ gây khủng hoảng tài chính toàn diện. Do đó, thà chấp nhận một cuộc điều chỉnh suy thoái có kiểm soát bây giờ còn hơn gánh rủi ro sụp đổ sau này. Trường hợp này cho thấy cách Trung Quốc sẵn sàng làm những “cú phanh gấp” chính sách để giải quyết tận gốc các vấn đề tích tụ, dù biết chắc sẽ gây xáo trộn cho một bộ phận dân cư và doanh nghiệp trong trước mắt.
Phát triển AI giữa làn sóng thất nghiệp tăng cao?
Gần đây nhất, Trung Quốc đang tiến nhanh trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và robot như những động lực mới cho năng suất – ngay cả khi thị trường lao động đang gặp khó khăn. Với dân số già hóa và các lệnh trừng phạt công nghệ từ Mỹ đang rình rập, chính phủ đang đầu tư mạnh vào tự động hóa. Trung Quốc hiện lắp đặt một trong hai robot công nghiệp trên thế giới, trở thành thị trường robot lớn nhất toàn cầu với khoảng cách lớn. Các quan chức khẳng định “cuộc cách mạng robot” này sẽ thúc đẩy hiệu quả mà không gây thất nghiệp hàng loạt, thường tuyên bố rằng robot sẽ “hỗ trợ” con người bằng cách đảm nhận các công việc nguy hiểm hoặc đơn điệu. Nhà nước đã đổ tiền tài trợ vào các startup AI, nhà máy sản xuất chất bán dẫn và các nhà sản xuất robot để giành lợi thế trong làn sóng công nghiệp tiếp theo.
Tuy nhiên, thời điểm này khá phức tạp: những tiến bộ này đến giữa lúc tình trạng thất nghiệp cao trong giới trẻ và lao động văn phòng. Tự động hóa có thể làm trầm trọng thêm tình trạng thất nghiệp ngắn hạn, đặc biệt trong sản xuất và dịch vụ, ngay cả khi nó giải quyết các thách thức nhân khẩu học dài hạn. Đảng đang đặt cược rằng đổi mới sẽ tạo ra cơ hội mới để bù đắp công ăn việc làm bị mất. Họ cũng đang chuẩn bị cho xã hội thông qua các chiến dịch “đào tạo lại kỹ năng” và giáo dục kỹ thuật, sẵn sàng cho sự đảo lộn. Tuy nhiên, các nhà phê bình lo ngại rằng việc thúc đẩy AI và robot lúc này, Trung Quốc “không giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp trong ngắn hạn” và có thể đang khóa cửa cơ hội việc làm chất lượng cho cả một thế hệ.
Điều này phản ánh tư duy quen thuộc: sức mạnh quốc gia dài hạn (trong công nghệ cao, trong trường hợp này) được ưu tiên, trong khi giới trẻ bất mãn hoặc công nhân bị thay thế được coi là sự hy sinh có thể chấp nhận được, hy vọng là tạm thời, vì lợi ích lớn hơn của hiện đại hóa. Tuyên truyền mạnh mẽ của chính phủ – chẳng hạn như các cuộc trình diễn công khai về robot hình người thân thiện – nhằm trấn an người dân rằng máy móc sẽ “thúc đẩy năng suất, không thay thế công nhân”. Cho dù điều này có đúng hay không, nó nhấn mạnh cách các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường tiến hành các kế hoạch phát triển bất chấp tác động tiêu cực ngắn hạn đối với một số nhóm, tin tưởng vào khả năng hấp thụ cú sốc của xã hội hoặc khả năng quản lý bất đồng của nhà nước.
Đối chiếu với cách tiếp cận của các nước khác
Để hiểu rõ hơn tính đặc thù trong cách Trung Quốc chấp nhận đánh đổi, hãy so sánh với cách các nước khác giải quyết những mâu thuẫn tương tự giữa phát triển và ổn định:
- Hoa Kỳ và các nước dân chủ phương Tây: Trong các nền dân chủ tự do, giới lãnh đạo bị ràng buộc bởi bầu cử, báo chí tự do và xã hội dân sự, nên khó có thể tiến hành những chính sách gây hy sinh lớn cho một nhóm dân cư mà không gặp phản ứng mạnh. Thông thường, bất cứ chính sách nào gây thiệt hại rõ rệt cho đời sống người dân sẽ vấp phải dư luận phản đối và sức ép bầu cử buộc chính phủ phải điều chỉnh hoặc bồi thường. Ví dụ, trong chiến tranh Việt Nam, chính phủ Mỹ chấp nhận hy sinh sinh mạng binh sĩ vì mục tiêu địa chính trị, nhưng đã gặp làn sóng biểu tình khổng lồ trong nước, cuối cùng buộc giới lãnh đạo Mỹ phải rút quân. Tương tự, tại phương Tây, các tiêu chuẩn về môi trường và lao động dần được nâng cao không phải vì chính phủ tự ý muốn hy sinh tăng trưởng, mà vì cử tri đòi hỏi không khí sạch, nơi làm việc an toàn, dù phải đánh đổi một phần lợi ích kinh tế. Dĩ nhiên, các nền dân chủ cũng có lúc phải thắt lưng buộc bụng (ví dụ chính sách“thắt lưng buộc bụng”ở châu Âu sau khủng hoảng tài chính, hay hạn chế tiêu dùng thời chiến), nhưng quy mô và thời gian của sự hy sinh thường nhỏ hơn nhiều so với Trung Quốc. Tính minh bạch và đa nguyên khiến chính phủ khó che giấu các hệ quả tiêu cực của chính sách: một nạn đói kinh hoàng kiểu Đại Nhảy Vọt gần như chắc chắn sẽ lật đổ ngay một chính phủ dân cửở phương Tây. Các nhà lãnh đạo Mỹ, châu Âu vì thế phải hoạt động trong “biên độ hẹp” của sự đồng thuận xã hội. Họ thường phải nỗ lực để thuyết phục đồng thuận đối với chính sách có hệ quả xấu, và mất công hơn để xoa dịu dư luận– nếu không sẽ bị cử tri trừng phạt qua lá phiếu. Hơn nữa,quyền cá nhân và bảo vệ nhóm thiểu số được ghi trong luật pháp, khiến các chính sách có thể bị tòa án bác bỏ nếu chúng nhắm thẳng vào một nhóm người chịu thiệt.
- Singapore và một số quốc gia Đông Á: Singapore là một trường hợp thú vị để so sánh – một nhà nước đô thị nhỏ với mô hình độc đảng mềm dẻo và chủ nghĩa tư bản nhà nước. Dưới thời Lý Quang Diệu, Singapore cũng ưu tiên tăng trưởng nhanh, kỷ luật và quản lý kỹ trị, nhưng quy mô và bối cảnh rất khác Trung Quốc. Dân số Singapore nhỏ (chỉ vài triệu), và chính phủ ở đó tuy cứng rắn nhưng khôngtrấn áp cực đoan. Chính quyền Singapore tập trung đáp ứng phúc lợi cơ bản cho dân (như nhà ở, giáo dục, y tế) và chống tham nhũng triệt để ngay từ đầu, do đó tránh được những biến động khắc nghiệt như Trung Quốc từng trải qua dưới thời Mao. Singapore cũng từng áp dụng chính sách hạn chế sinh đẻ quyết liệt thập niên 1970 (dùng khẩu hiệu “dừng lại ở hai con”), nhưng khi nhận thấy tỷ lệ sinh giảm quá mức, họ nhanh chóng điều chỉnh (sang thập niên 1980 thì khuyến khích sinh trở lại). Mỗi chính sách khó khăn ở Singapore thường đi kèm hỗ trợ xã hội tận tình để giảm thiểu tác động xấu – ví dụ, khi người dân phải hạn chế sinh con, chính phủ vẫn đảm bảo họ có việc làm, nhà ở tốt, giáo dục tốt, nênít gây oán hận. Tính chính danh của Đảng Hành động Nhân dân cầm quyền ở Singapore chủ yếu đến từ việcđảm bảo đời sống người dân “tốt dần lên” một cách thấy rõ. Nếu có thể nói,các lãnh đạo Singapore đã “học từ sai lầm của Trung Quốc”: họ thận trọng hơn, cải thiện dần dần vàgiữ tiêu chuẩn quản trị cao để không phải sửa sai đau đớn sau này. Mặc dù không cho phép đối lập chính trị, Singapore vẫn rất nhạy bén trước nhu cầu dân chúng, nhờ đó tránh được bất ổn nghiêm trọng. Tương tự, các nước Đông Á khác như Hàn Quốc, Đài Loan thời kỳ độc tài cũng có những sự đánh đổi (đàn áp bất đồng, ưu tiên công nghiệp hóa trước, dẫn tới chênh lệch thành thị – nông thôn), nhưng không nơi nào xảy ra các thảm kịch kiểu Đại Nhảy Vọt hay Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc. Lý do một phần vì họ chịu kềm chế bởi liên minh với phương Tây hoặc có tầm nhìn sẽ chuyển hóa sang dân chủ trong tương lai, nên không dám làm liều gây tổn thất xã hội quá lớn. Nói chung, các nước này chia sẻ mục tiêu phát triển với Trung Quốc, nhưng cân bằng nó với sự ổn định xã hội tốt hơn và nhanh chóng sửa sai khi chính sách trật hướng.
- Liên minh châu Âu và các nền dân chủ xã hội: Ở châu Âu, đặc biệt là các nước Bắc Âu hay EU nói chung, tồn tại một nguyên tắc “không để ai bị bỏ lại phía sau”(No one should be left behind). Các chính sách lớn đều cố gắng giảm thiểu tác động tiêu cực lên nhóm yếu thế. Nếu phải đóng cửa mỏ than để bảo vệ môi trường, chính phủ sẽ kèm theo chính sách bồi thường, đào tạo lại, hỗ trợ chuyển việc cho thợ mỏ, kéo dài trong nhiều năm, nhằm tránh gây sốc cho cộng đồng địa phương. Trong văn hóa chính trị châu Âu, việc cố tình để “một số người chịu thiệt trước để số khác hưởng lợi trước”bị xem là khó chấp nhận về đạo đức và chính trị. Thêm vào đó, EU có các quy định và tòa ángiám sát chặt chẽ: chẳng hạn, luật EU bắt buộc phải có đánh giá tác động môi trường và tham vấn công chúng trước khi triển khai dự án lớn – thể hiện nguyên tắc thận trọng, ưu tiên sự an toàn. Các nhà nước phúc lợi châu Âu chấp nhận tăng trưởng chậm để đổi lấy công bằng và bảo vệ môi trường. Về chính trị, hệ thống đa đảng và nghị viện ở châu Âu đảm bảo rằng nếu một chính sách tạo ra nhóm “thua thiệt” rõ ràng, các đảng đối lập sẽ lên tiếng mạnh mẽ, lôi kéo quần chúngbuộc chính phủ phải điều chỉnh hoặc bù đắp cho nhóm đó. Kiểm duyệt thông tin khó khăn hơn (nhưng không phải không có), do có báo chí tự do và các tổ chức xã hội. Một vụ đàn áp kiểu Thiên An Môn ở châu Âu chắc chắn sẽ khiến chính phủ sụp đổ ngay lập tức và các quan chức liên quan đối diện công lý – điều khó xảy ra với giới lãnh đạo Trung Quốc nhờ hệ thống chính trị thiếu vắng cơ chế trách nhiệm tương tự.
Tất nhiên, mỗi hệ thống đều có điểm mạnh và hạn chế riêng. Mô hình tập trung của Trung Quốc giúp họ quyết định nhanh, thực thi quyết liệt (như xây dựng cơ sở hạ tầng lớn hay giảm nghèo quy mô lớn) – điều mà các nền dân chủ phân tán đôi khi khó làm kịp. Nhưng như ta đã thấy, sức mạnh đó đi kèm “mặt trái” là quyền lực không kiểm soát dễ dẫn tới lạm dụng và sai lầm nghiêm trọng. Trong khi đó, dân chủ phương Tây tránh được các cực đoan tồi tệ nhất và sửa sai nhanh hơn, nhưng lại có thể bị bó buộc bởi những toan tính nhiệm kỳ ngắn hạn hay nhóm lợi ích cản trở cải cách.
“Hy sinh vì phát triển” không phải điều chỉ có ở Trung Quốc, nhưng quy mô, mức độ chủ ý và cách biện minh cho những hy sinh đó ở Trung Quốc khác biệt rất lớn. Tại Trung Quốc, sự hy sinh đã trở thành có hệ thống và được chính quyền lý luận dưới danh nghĩa ý thức hệ dân tộc, đại nghĩa phát triển, trong khi ở nơi khác, hy sinh thường là hạn chế, gây tranh cãi và chính phủ phải giải trình, thậm chí xin lỗi khi chính sách gây tổn thất.
Kết luận: Vì sao Trung Quốc chấp nhận những đánh đổi đó?
Nhìn vào chuỗi chính sách và sự kiện trên, ta thấy nổi lên một mô thức chung: giới lãnh đạo Trung Quốc nhiều lần chủ động lựa chọn đánh đổi – hy sinh quyền lợi của một bộ phận dân chúng, của cá nhân hay của các giá trị khác – để đạt bằng được các mục tiêu mà họ cho là sống còn cho quốc gia (dù đó là công nghiệp hóa, tăng trưởng nhanh hay ổn định chính trị lâu dài). Vậy điều gì thôi thúc họ chấp nhận những đánh đổi đau đớn như vậy?
Có nhiều cách lý giải về các chính sách đánh đổi của Trung Quốc. Thứ nhất, đó có thể là tham vọng quyền lực của giới lãnh đạo nhằm duy trì sự thống trị của Đảng Cộng sản. Thứ hai, đây là quy luật phát triển chung của các nước đang phát triển – các nước phương Tây cũng từng trải qua giai đoạn công nghiệp hóa đầy đau thương tương tự. Thứ ba, văn hóa Khổng giáo và tư tưởng tập thể tạo nên tâm lý chấp nhận hy sinh cá nhân vì đại cục. Thứ tư, hệ thống một đảng thiếu cơ chế kiểm soát và đối trọng khiến sai lầm khó được điều chỉnh kịp thời. Cuối cùng, bối cảnh địa chính trị và lịch sử đặc thù – với dân số khổng lồ, ký ức “thế kỷ ô nhục” và vị trí địa chiến lược – khiến lãnh đạo Trung Quốc ưu tiên sức mạnh quốc gia và ổn định nội bộ trên hết, sẵn sàng áp dụng các biện pháp quyết liệt kể cả khi gây tổn thất cho một bộ phận dân cư.
Nhưng câu hỏi lớn vẫn còn đó: Liệu những lý giải này có thực sự đầy đủ? Đằng sau những quyết sách đánh đổi ấy, động cơ thực sự của lãnh đạo Trung Quốc là gì – quyền lực cá nhân, lý tưởng dân tộc, hay tính toán chiến lược dài hạn? Và những hệ quả bi thảm – từ nạn đói đến ô nhiễm, từ đàn áp đến thất nghiệp – là kết quả của sai lầm chủ quan hay là “cái giá tất yếu” phải trả? Hãy cùng đón đọc Phần 2 để đào sâu vào câu hỏi căn bản: Điều gì đã dẫn đến sự đánh đổi để phát triển Trung Quốc?
Nguyễn Phương Mạnh
> Tìm hiểu thêm: Dự án xuất bản sách nghiên cứu chính trị – kinh tế Trung Quốc của Book Hunter
