Rất nhiều lần trong cuốn sách “Nhạc Đại Chúng Việt Nam – Chuyển đổi xã hội giữa hai miền nhớ quên” của mình, nhà nghiên cứu Dale A.Olsen khẳng định rằng âm nhạc Việt Nam hiện đại có 3 đại thụ lừng lẫy: Văn Cao, Trịnh Công Sơn và Phạm Duy. Olsen cũng cho thấy vị thế ảnh hưởng của 3 đại thụ trong tâm thức chính trị của người Việt: Văn Cao với sự ảnh hưởng mạnh mẽ với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, Trịnh Công Sơn chông chênh giữa những xung đột của dân tộc, thì Phạm Duy là ông hoàng trong thế giới âm nhạc phản chiến và đi ngược lại xu hướng chính trị thắng thế sau 1975. Nhận định của Olsen cho ta thấy phần chính trị của 3 chân dung đại thụ âm nhạc Việt Nam hiện đại, nhưng ở tầng sâu, sự khác biệt đã nằm trong cốt cách âm nhạc của mỗi nhạc sĩ: Văn Cao với vẻ nghiêm cẩn thanh thoát của cõi tiên, Trịnh Công Sơn mang nặng lòng từ bi của cõi Chúa và cõi Phật dành cho vạn vật vô thường, còn Phạm Duy là một hỗn thể phức tạp giữa hai cõi tục – thanh và đi đến điểm chạm tối cao của một tinh thần tự do tuyệt đối.
So với Trịnh Công Sơn, Phạm Duy để lại số lượng trước tác khổng lồ hơn, so với Văn Cao, ông viết nhiều trường ca hơn. Không chỉ vậy, ông để lại rất nhiều khảo cứu về âm nhạc dân gian, âm nhạc tiền chiến… như những ghi chép tư liệu thô trong quá trình học của mình. Phạm Duy rất chăm chút bồi dưỡng thế hệ âm nhạc kế cận, nên ông viết cả những kinh nghiệm nghiên cứu và sáng tác của mình thành sách. Và lý thú nhất phải kể đến bộ Hồi ký Phạm Duy sống động vừa cho thấy con người nổi loạn của ông, vừa cho thấy những nền tảng tri thức mà ông tiếp thu và bao lịch duyệt đời người đã hình thành nên cốt cách âm nhạc của ông.
Phạm Duy có thái độ chính trị với thời cuộc rất rõ ràng, không nhượng bộ. Xuất thân trong một gia đình trí thức miền Bắc nổi tiếng đầu thế kỷ 20, ở giữa những phân ranh Đông – Tây, dân gian – bác học, sống trong một giai đoạn biến động liên tục và chứng kiến những cảnh bãi bể nương dâu của đất nước, Phạm Duy đã “nhập thế” bằng âm nhạc chứ không đơn thuần là sáng tạo âm nhạc. Âm nhạc của ông là tiếng lòng thời đại, nhưng không phải những lời hô hào, mà là những lời đau thương cất lên từ số phận người giữ cơn biến loạn. Thế kỷ 20 là một thế kỷ đen tối của thế giới, nơi con người bị giam cầm trong những lời tuyên truyền và kích động để đẩy đưa nhau vào chiến tranh, tính cá nhân của con người bị chìm trong bóng tối. Nói như S.L Frank trong “Ánh sáng và bóng tối”, đó là “Các lầm lạc theo quy tắc chung hóa ra hùng mạnh hơn các chân lí, trò chơi mù quáng của các thế lực phi lí tính đang đặt ra giới hạn cho mọi hoài vọng của trái tim con người – trong đời sống cá nhân cũng như trong đời sống lịch sử…chế độ nô lệ về mặt tàn bạo vượt xa các hình thức cổ xưa, cuộc tiêu diệt tập thể hàng loạt các dân tộc, thái độ đối xử với con người như với súc vật, thái độ khinh miệt trâng tráo các nguyên lí cơ bản nhất của nhân quyền và sự thật, những thứ đó được thực hiện thật dễ dàng đáng kinh ngạc. Cái được gọi là con người văn hóa đột nhiên thành ra bóng ma hư ảo; trên thực tế nó bộc lộ bản thân ra vô cùng tàn ác, kẻ man rợ mù quáng về đạo đức, tính văn hóa của nó chỉ biểu hiện ra trong một việc – tinh tế và hoàn thiện của các phương tiện hành hạ và giết chóc”. Phạm Duy thấm thía sự điên rồ và man dã này của thời đại, và ông ý thức rõ ràng vai trò âm nhạc của mình như thắp lên một ngọn ánh sáng le lói giữa bóng đêm thời đại, cho dù ngọn ánh sáng ấy rất mong manh giữa trường dạ dằng dặc. Ông tuyên bố trong Tâm Ca Tiếng Hát To của mình:
“Tôi sẽ hát to hơn những kẻ khơi ngọn lửa thù
Lời tôi ca, lời tôi ca như suối rừng thu
Lửa âm u ai đốt từ lâu
Miền quê tôi khan tiếng kêu gào
Lời tôi ca như nước nhiệm mầu
Thành mưa rơi cho dứt niềm đau
Lời tôi ca, lời tôi ca xua hãi hùng đi
Mùa xuân qua ai mất tuổi thơ
Lời tôi ca hôn má xuân già
Còn yêu nhau xin cứ mặn mà
Ðừng cho ai ăn cướp tình ta.”
Cả một cuộc đời âm nhạc của Phạm Duy là sự trân trọng với những giá trị đẹp đẽ của nghệ thuật và nhân văn. Trân trọng cái đẹp nhưng không sa đà vào cái duy mỹ, cũng không cần thoát tục, không ám ảnh về cái vô thường, mà hoàn toàn rất đời, rất hiện thực, rất gần gũi. Tính “đời” trong âm nhạc của ông chính là tâm cảnh trong âm nhạc của ông, là tố chất nổi loạn và tự do trong ông. Đã từng nhiều nhà phê bình, nhà báo trong lĩnh vực âm nhạc gọi Văn Cao hoặc Trịnh Công Sơn là “Hoàng Tử Bé” của cõi giới âm nhạc Việt Nam, nhưng người ta không thể phong tặng Phạm Duy biểu tượng ngây thơ và mơ mộng ấy.
Tuổi trẻ qua lại giữa hai miền Thanh – Tục
Phạm Duy vốn là con của nhà văn Phạm Duy Tốn nổi tiếng. Phạm Duy Tốn không chỉ là một nhà báo phản biện xã hội và một nhà văn hiện thực, ông còn là một nhà hoạt động chính trị, từng được bầu vào Hội đồng dân biểu thành phố Hà Nội, nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ và cùng các trí thức và quan chức thời thuộc Pháp như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Vũ Huy Quang tham dự Hội chợ triển lãm quốc tế (tức Đấu xảo) ở Marseille (Pháp). Hai người con trai của Phạm Duy Tốn là hai thái cực khác nhau: Ông Phạm Duy Khiêm hoàn toàn đi theo con đường hàn lâm, học giỏi nổi tiếng, có thể sử dụng xuất sắc tiếng Pháp, Latin, Hy Lạp và dấn thân vào chính giới. Người em trai sau ông Khiêm là ông Nhượng, cũng là một người thuần túy theo con đường học thuật. Ngược lại với ông Khiêm, ông Cẩn (tức nhạc sĩ Phạm Duy) tự nhận xét về mình như sau:
“…những ngày mới vào đời, tôi đã là cậu bé thích diễn xuất và thích coi người khác biểu diễn )thích coi xiếc, coi hát chẳng hạn…) đến đỗi có lần bỏ nhà đi theo một anh làm trò ảo thuật… Thích kỹ thuật, với hộp đồ chơi của Pháp là hộp Meccano, mầy mò lắp tàu bay tầu bò nho nhỏ, lắp máy nghe radio…”
“Từ khi tôi lên 10 (mới bắt đầu hiểu biết) cho tới khi tôi 14 tuổi, sự hiểu biết của tôi về đánh đàn, ca hát, làm trò… có vẻ nhiều hơn những đứa trẻ khác trong khu phố Hàng Dầu, Hà Nội.”
“Về ca hát, tôi biết bài hát của người hát rong tới trước cửa nhà, hát để xin tiền, theo điệu trống quân: “Ngày xưa có anh Trương Chi, người thì thậm xấu tiếng hát thì thậm hay.” Tôi còn nhớ tôi khóc khi nghe anh này hát, cả nhà về sau hay chọc quê tôi bằng cách hát lại câu hát đó.”
“Tôi còn thường hay tới rạp cinéma Pathé ở ngay xế cửa nhà tôi, khoét tường coi cọp những phim câm rồi trở về nhà, leo lên giường, đeo mặt nạ, khoác chăn dạ, đánh gươm với anh Nhượng giống như anh hùng Zorro trong phim chiếu bóng.”
“Về việc học hành, tôi không phải là người có bằng cấp đại học mà chỉ học được vài năm tiểu học và một năm trung học nhưng những gì tôi học được ở nhà trường đã làm nên tôi, xây đắp tâm hồn tôi…” (2)
Qúa trình học của Phạm Duy là một trường hợp điển hình của văn nghệ sĩ Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20. Đa phần trong số họ không tốt nghiệp đại học, có những người bỏ học từ rất sớm (vì sở thích hoặc vì hoàn cảnh), nhưng cái nền trường học Quốc Ngữ đã tạo cơ sở để họ tiếp tục học trong cuộc đời và tự rèn luyện các kỹ năng nghệ thuật của mình. Ta có thể thấy quá trình học này ở rất nhiều tên tuổi nổi tiếng như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Thế Lữ, Đinh Hùng… Đinh Hùng còn chẳng ngần ngại mà tuyên bố hùng hồn về lựa chọn “học trong cuộc sống” của mình trong bài thơ “Khi mới nhớn”:
“Ta ném bút dẫm lên sầu một buổi
Xa vở bài, mở rộng sách ham mê
Đã từng phen trèo cổng, bỏ trường về
Xếp đạo đức dưới bàn chân ngạo mạn
Đời đổi mới từ ngày ta dấy loạn
Sớm như chiều hư thực bóng hoa hương
Ta ra đi tìm lớp học thiên đường
Và khi đó thì mẹ yêu ngồi khóc…
Ôi! khoái lạc những giờ trốn học
Những bình minh xuân đẹp, những chiều thu!
Bao cảnh nước mây đằm thắm hẹn hò
Khi biếng gặp nhớ nhung pha màu áo
Hỡi thành đô với linh hồn bách thảo
Còn nhớ ta chăng, tuổi trẻ tóc bay?
Làm học trò nhưng không sách cầm tay
Có tâm sự đi nói cùng cây cỏ”
Trong những trang hồi ký của mình, ta có thể dễ dàng thấy cuộc học giữa đời của Phạm Duy từ khi còn nhỏ đã cho ông những cái nhìn khác hẳn lối “lãng mạn tiểu tư sản”. Ví dụ, ông so sánh cái nhìn của ông với cái nhìn của những văn nghệ sĩ trí thức như sau:
“Các nhạc sĩ như Trần Văn Nhơn, Hoàng Dương (em họ của Thái Hằng, vợ tôi), Nguyễn Đình Thi… khi thương hay khi nhớ Hà Nội, họ đều có những bài hát nói tới đầy đủ các khu các phố. Văn Cao có bài Thăng Long Hành Khúc xưng tụng đủ cả Nhị Hà, Tháp Gươm, Văn Miếu, Cột Cờ, Tràng Thi… Tôi chỉ có một mối tình dành riêng cho hồ Hoàn Kiếm mà thôi. Qua bài Gươm Tráng Sĩ…
Đã có nhiều nhà văn cho chúng ta thấy cái thơ mộng của hồ Gươm. Anh bạn Nguyễn Đình Toàn nhìn nó như trái tim của Hà Nội rồi còn nghe được tiếng guốc thiếu nữ reo vang trên những lối đi quanh hồ… Ông còn ví hồ này, vào mùa thu, giống như con mắt buồn bã của người tình. Tôi cũng thấy như vậy. Nhưng vì quanh năm sống với hồ Gươm nên tôi còn thấy nó trong những hoàn cảnh ít nên thơ hơn, như ra coi những xác người treo cổ trên cây đa bên bờ hay trầm mình xuống hồ nước, vì thất tình hay vì lý do buồn bã hơn là sự túng quẫn.
Nói tới Hồ Gươm, người ta còn nói tới mùi nhang thơm trong đền Ngọc Sơn hay nói tới môi hôn ngọt của cặp tình nhân trên cầu Thê Húc.Tôi được sống lâu với chiếc cầu và ngôi đền nên còn nhìn thấy cả đám ăn mày ngồi la liệt trên lối ra vào với lũ ruồi bu đầy trên những đôi mắt toét đỏ lòm. Và cảnh nhà nho cuối cùng mặc áo bông rách, ngồi viết những chữ Phúc Lộc Thọ hay những câu đối trên giấy đỏ… chỉ làm tôi bùi ngùi hơn là bồi hồi. Hồ Gươm với tôi là giọt lệ, không phải lệ ngọc ngà mà là lệ buồn thương.”
Ký ức tuổi thơ của Phạm Duy là “Hà Nội băm sáu phố phường” (Xin được mượn tên tập tản văn của Thạch Lam), là những thú vui với lũ trẻ đường phố, những gánh hát, những buổi chiếu bóng, những bài dân ca từ người dân lao động. Những yếu tố này có lẽ đã ảnh hưởng tới nét nhạc dân gian, lối ca từ giản dị chân thực giàu hình ảnh mà ta thường thấy trong rất nhiều ca khúc của Phạm Duy. Phần “đường phố” này của Phạm Duy để lại dấu ấn mạnh mẽ nhất trong 10 bài “Tục ca”. Phải khẳng định rằng, trong lịch sử âm nhạc mà có lẽ là cả lịch sử văn học nghệ thuật của Việt Nam, trước Phạm Duy, chưa từng có tác giả nào dám “tục” đến thế, “tục” từ nét nhạc đến ca từ lẫn đề tài. Không những “tục”, còn dám đề danh không ngần ngại, còn tự đàn tự hát, và lồng ghép cái “tục” ấy với sự tố cáo xã hội sâu cay. Phạm Duy tâm sự trong Hồi Ký rằng: “Về sau, khi cuộc chiến leo thang, cuộc đời trở nên ê chề và tuổi mình đã cao, tôi mới thể nhập và thể hiện một cách khác, nghĩa là đem nội dung đạo đức đặt dưới hình thức tục tằn qua MƯỜI BÀI TỤC CA.” (4)
“Tục ca” gồm 10 bài, bao gồm: Hát Đối (phổ nhạc và phóng tác từ ca dao), Tình Hôi, Gái Lội Qua Khe (thơ Bùi Giáng), Úm Ba La Ba Ta Cùng Khỏi, Khỉ Đột (phóng tác “Le Gorille” của Georges Brassens), Mạo Hóa, Nhìn Lồn, Em Địt, Chửi Đổng, Cầm Cặc. Tục Ca xoay quanh hai nhóm chủ đề chính: đời sống phồn thực và tiếng chửi dành cho những điều trái tai gai mắt trong cuộc đời. Đời sống phồn thực trong Tục Ca không phải thứ tình yêu mỹ miều hay cơn khát dục được đắp lên những hình ảnh nhã nhặn. Bài Hát Đối mở đầu Tục Ca như một mã dân gian quan trọng để bước vào Tục Ca, như một nhắn nhủ nhẹ nhàng rằng: đây là ngôn ngữ của người dân lao động, thứ ngôn ngữ bị thế giới chính thống lãng quên, khinh miệt. Đời sống tình yêu ấy như thế này:
“Ớ này anh ời ớ này anh ơi Em như cục cứt trôi sông Anh như con chó ngồi trông trên bờ
Ớ này em ời ớ này em ơi Em đừng nói vậy em khờ Ba em hồi đó cũng chờ như anh
Ớ này em ời ớ này em ơi Anh như con đực chạy rông Còn em như con mèo cái chổng mông em gào
Ớ này anh ời ớ này anh ơi Anh đừng nói chuyện tào lao Má anh hồi đó cũng ồn ào như em.”
Các nhạc sĩ thời kỳ đầu của nền Tân Nhạc đều mượn các yếu tố dân gian để kết hợp với âm nhạc phương Tây, nhưng người gần dân gian nhất chính là Phạm Duy. Ông sống trong dân gian, dành thời gian nghiên cứu âm nhạc dân gian khắp các miền (ông có viết một khảo cứu có tên là “Đặc khảo về dân nhạc Việt Nam”). Lựa chọn phổ nhạc và phóng tác từ ca dao của Phạm Duy là một tất yếu trong thực hành âm nhạc của ông sau khi ông đã phổ nhạc rất nhiều các bài thơ hay của các tác giả nổi tiếng. Đời sống yêu đương phồn thực của dân gian khác hẳn với tình yêu mơ màng trong “Cô hái mơ” của Nguyễn Bính hay tâm trạng bẽn lẽn của “Nguyễn Tất Nhiên” trong “Em hiền như maseur”.
Tự nhận mình là một kẻ “ma cà bông” đường phố, Phạm Duy chẳng ngần ngại che giấu niềm yêu thích với những diễn xướng dâm tục. Mặc dù lớn lên trong môi trường ngôn ngữ phồn thực của người dân lao động, nhưng màn diễn thực sự khuyến khích ông mạnh dạn sáng tạo bằng đời sống ngôn ngữ này chính là danh ca Pháp Georges Brassens, người vẫn luôn tự gọi mình là “le pornographe de la chanson” (kẻ dâm tục trong ca khúc). Phạm Duy viết: “Dù mỗi lần đi qua Opéra de Paris là tôi bị xúc động vì đây là nơi tột đỉnh danh vọng của giới sân khấu, nhưng tôi không thích coi loại đại-vũ-kịch cổ điển Tây Phương này, có lẽ vì ca kịch sĩ hát opéra là phải rú lên, nghe chướng tai vô cùng. Không thích coi opéra cũng là một thiệt thòi cho tôi, chắc chắn như vậy. Trái lại tôi thích coi Théatre de Variétés và không bỏ qua bất cứ một buổi diễn nào của nghệ sĩ Georges Brassens với loại hát giống như là tục ca. Chính tác giả cũng tự nhận là le pornographe de la chanson (kẻ dâm tục trong ca khúc). Tôi mê bài Le Gorille của anh và sẽ biến nó thành Tục Ca số 5. Với vẻ người hao hao giống Nguyễn Tuân, Georges Brassens là một ca sĩ ngang ngược, không bao giờ chào khán giả khi ra sân khấu hay sau khi hát xong.” (5)
Diễn xướng tục ca không phải là một phát minh mới mẻ, kỳ thực là một di sản diễn xướng đã thất truyền trong bước tiến “văn minh hóa” cả ở phương Tây và phương Đông. Aristotle trong “Thi Ca luận” có đề cập đến những khúc satyr, mà trong bản dịch của tôi, tôi đã mượn khái niệm “tục ca” để chuyển ngữ khái niệm này. Các tục ca thời Hy Lạp cổ đại thường được diễn xướng trong các lễ hội Dionysia, ban đầu là các khúc hát giễu nhại, sau đó chuyển thành các màn diễn, thậm chí là hài kịch ngắn hoặc một vở hài kịch hoàn chỉnh. Dù hình thức nào, tục ca – satyr cũng đều có sắc thái hài hước, châm biếm, đùa vui thô tục, sử dụng các hình ảnh tình dục. (6) “Tục ca” của Phạm Duy không ra ngoài sắc thái này, bên cạnh biểu hiện đời sống phồn thực của dân gian, tiếng cười châm biếm sâu cay mà đau đớn cũng được cất lên như những lời thóa mạ chửi bới của người dân thường. Đúng như Phạm Duy “tự thú”: “Ngoài tính chất châm biếm xã hội, tục ca còn là bài hát chính trị nữa.” (7)
“Tôi có người yêu vú đít răng tóc đều chống trời Em đã sửa cho đúng mốt văn minh của xứ người Từ trên từ dưới em mất tiền mua Vì ưa đổi mới giống người ta
Nên muốn được em sẽ giữ anh lâu bền suốt đời Anh đã phải đi Đức quốc mua cho được cái này Một con cặc mới khi hứng thì đeo Để cho hợp với mác các người yêu.”
(Trích “Mạo hóa”)
hay:
“Em địt vua em địt chúa Địt tổng thống Hoa Kỳ Địt chủ tịch Liên Xô Em địt người địt cả Trời
Em địt Mao em địt Chu Địt cả chú Hoa Kiều Địt ai cũng không nhiều Em địt anh mới lâu”
(Trích “Em địt”)
hay:
“Đù mẹ mày ba tên là ba thằng tướng cướp Vì khiếp sợ lẫn nhau nên mới chia nhau địa cầu
Đù mẹ cuộc đao binh cả ba đều né tránh Rồi bắt người rất ngoan chết oan mang tội tình
Đù mẹ cả bọn mày gặp nhau đây với đó Chia chác nhau chuyện này chia chác nhau chuyện nọ
Đù mẹ cả lò mày lừa nhau đem vũ khí Xui chúng tao hành nghề nghề giết người bay thuê”
(Trích “Chửi đổng”)
Phạm Duy luôn bày tỏ sự thất vọng khi nhiều nhà phê bình và nhiều nghệ sĩ đã chỉ trích “Tục ca” của ông, thậm chí cho rằng đó là sự thất bại trong sự nghiệp của ông. Thậm chí, họ cho rằng cái vui, cái tếu không phải một phẩm chất của Phạm Duy. Phạm Duy cay đắng thốt lên: “Hai vị viết sách, viết báo về tôi là Tạ Tỵ và Georges Gauthier đều cho rằng cái vui, cái tếu không phải là chất liệu Phạm Duy, cho nên tục ca không thành công. Chưa kể có người chê tôi đi tới chỗ nhảm nhí trong nghệ thuật. Tôi cũng hiểu được vì sao có những người chống đối Tục Ca dù họ không biết cặn kẽ nội dung của nó. Tôi không hề tung Tục Ca ra quần chúng. Tôi chỉ tặng vài người bạn thân một băng cassette ghi lại buổi hát chơi ở Vũng Tầu và còn dặn dò đừng phổ biến!” (7) Tôi hoàn toàn đồng tình với Phạm Duy. Kỳ thực, so với các chùm “Tâm phẫn ca”, “Bình ca”, “Thiền ca, “Đạo ca”, “Tình ca”… 10 bài “Tục Ca” là đột phá thành công nhất của Phạm Duy về mặt nghệ thuật cũng như chính trị, dù rằng không nhận được nhiều yêu thích. Xét về nghệ thuật, “Tục Ca” đã thành công đưa mọi thành tố dân gian, những yếu tố hoàn toàn bên lề của nền nghệ thuật chính thống, như một sự tái hiện di sản cổ sơ đã biến mất. Xét về chính trị, “Tục Ca” phản ánh tiếng nói, chính xác hơn là tiếng chửi thẳng của người dân cần lao trước những ngang trái cuộc đời. Nếu những người phê phán “Tục Ca” là thô thiển, xin hãy dành thời gian ngồi lại những xó chợ, góc đường… để nghe những người lao động phản ứng trước thời cuộc. Họ không biết diễn thuyết lấy lòng người hay rêu rao các lập luận thuyết phục, nhưng họ biết chửi, chửi thật to, chửi đổng, chửi tất. Chỉ có thể là một Phạm Duy dám vượt qua những ranh giới về cái “nhã” trói buộc trong nghệ thuật Việt Nam lúc bấy giờ, vượt qua cả những định danh và xưng tụng của người đời dành cho chính mình, mới có thể sáng tạo và hát “Tục ca” quyết liệt và sống động như vậy.
Ở một thái cực khác, Phạm Duy được yêu thích hơn, đó chính là các ca khúc mang sắc màu thanh nhã. Thời thanh niên của Phạm Duy trọn vẹn trong bầu không khí văn chương nghệ thuật nở rộ ở miền Bắc Việt Nam với phong trào Thơ Mới và phong trào Tân Nhạc. Ở cả hai phong trào này, đặc biệt là Tân Nhạc, là sự kết hợp giữa xu hướng Lãng mạn trữ tình Pháp với các yếu tố phương Đông mà đặc trưng là Đường thi, hát ả đào, ca Huế và thơ ca của các nhà Nho tài tử Việt Nam. Sự thanh nhã và duy mỹ này thấm đượm không những trong các sáng tác mà trong gu thẩm mỹ của người nghe nhạc lúc bấy giờ. Phạm Duy trong những năm tháng trước 1945, vốn là một ca sĩ nổi danh của dòng Tân Nhạc. Ông kể lại như sau: “Tôi, Phạm Duy, vào lúc khởi sự có âm nhạc cỉa cách đã tự học nhạc lý, tự học đàn mandoline, đàn guitare và đã khá nổi danh là ca sĩ hát hay ở tỉnh nhỏ Hưng Yên, đã đem những bài thơ của Huy Cận, Nguyễn Bính… ra phổ nhạc, trước khi bỏ nhà đi theo một gánh hát rong, đi lưu diễn trong gần ba năm trời tại nhiều tỉnh trong khắp ba miền Trung, Nam, Bắc… vô tình trở thành một kẻ du ca chuyên nghiệp (không phải là amateur như hầu hết các nhạc sĩ trẻ thời bấy giờ) đi phát huy Tân Nhạc Việt Nam một cách đắc lực nhất.” (8)
Hành trình du ca chuyên nghiệp này đã dẫn Phạm Duy đến với Văn Cao, ông hoàng của nền Tân Nhạc Việt Nam. Viết về mối quan hệ của Phạm Duy và Văn Cao, Dale Olsen đúc kết: “Cùng thế hệ cũng như nguồn cảm hứng có sự tương đồng” (9). Mối thân tình của Phạm Duy và Văn Cao được phản ánh trong chính Hồi ký, khi Phạm Duy gọi Văn Cao bằng “thằng”, một lối gọi phóng túng ở miền Bắc khi bạn bè nói về nhau. Văn Cao chính là người đã hướng dẫn Phạm Duy vào nghiệp sáng tác dù rằng trước đó Phạm Duy mới tập tành với bản phổ nhạc “Cô hái mơ” của Nguyễn Bính. Họ đã gặp nhau trong một lần Phạm Duy theo đoàn hát lưu diễn ở Hải Phòng. Văn Cao rất ấn tượng với chàng ca sĩ trẻ ôm guitare hát “Buồn tàn thu”, và tình tri kỷ bắt đầu từ đó. Ca khúc đầu tiên họ viết chung với nhau chính là “Bến xuân”. Văn Cao đã thừa nhận: “Đầu năm nay, nó [Phạm Duy] xuống Hải Phòng. Và Buồn Tàn Thu đã được nó lôi đi hát vang lên trên các nẻo đường xứ Bắc. Và thế là người yêu nhạc chốn Hà Thành đã biết có một Văn Cao tiếp sau Đặng Thế Phong”. (10) Phạm Duy cũng không hề tiếc lời ca tụng tài năng của Văn Cao, dù rằng số lượng các ca khúc của Văn Cao rất ít (khoảng 20 bài) so với con số khoảng 900 bài của Phạm Duy: “Văn Cao thật là một con người tài hoa. Nhạc tình của nó hay, nhạc hùng của nó cũng hay không kém.” (11) Trong “Tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu”, Phạm Duy cũng lẩy ra những nét tài hoa siêu tuyệt của Văn Cao, những gì khiến Văn Cao thực sự trở thành ông hoàng của nền Tân Nhạc. Không giống như các nhạc sĩ sử dụng cung Thương trong ngũ cung phương Đông kết hợp với nét nhạc Tây khi sáng tác như Lê Thương, Đặng Thế Phong… và ngay cả một giai đoạn sáng tác dài của Phạm Duy sau này, Văn Cao đã dùng nét nhạc Tây với điệu valse và nét nhạc majeure ngắn để diễn tả niềm vui thoáng qua. Một cuốn sách dày 212 trang, điểm qua toàn bộ tiến trình của nền Tân Nhạc, có thể sánh với “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh – Hoài Chân, nhưng Phạm Duy dùng đến 21 trang để viết về Văn Cao, đi sâu vào hai tác phẩm lớn là “Thiên Thai” và “Trương Chi”, kỹ lưỡng hơn rất nhiều so với viết về “Hòn Vọng Phu” của Lê Thương hay “Giọt mưa thu” của Đặng Thế Phong. (12) Và cũng chính Phạm Duy, khi từ bỏ miền Bắc Xã hội chủ nghĩa để chạy vào Nam, đã trở thành người đưa nhạc Văn Cao phổ biến khắp miền Nam Việt Nam. Nhắc đến tầm vóc của Văn Cao trong nền Tân Nhạc, sở dĩ tôi muốn nói đến sự ảnh hưởng của nền Tân Nhạc và Thơ Mới nói chung và Văn Cao nói riêng đến giai đoạn đầu của nhạc Phạm Duy.
Phạm Duy bắt đầu sáng tác năm 1942 với ca khúc “Cô hái mơ” phổ thơ Nguyễn Bính. Cách Phạm Duy hình thành điệu khúc chính là cảm nhận tiết điệu trong bài thơ và vẫn sử dụng cấu trúc ngũ cung. Phạm Duy tự nhận xét rằng ca khúc ấy có tiết điệu đơn sơ, và sử dụng những nét giai điệu mà từ Lê Thương, Đặng Thế Phong, Văn Cao, Đỗ Nhuận… ai cũng sử dụng. (13) Phải đến khi Phạm Duy viết “Cây đàn bỏ quên, ông mới tạo ra một gamme của riêng mình với lời thơ theo nhịp lục bát với nhưng câu láy “tinh tang tính tính tình tang” đệm vào giữa khung nhạc (14) như “í ơi”, “hò ơ”, “à ơi” trong dân ca hay lời hát của Thạch Sanh “Đàn kêu tích tịch tình tang/ Ai đem công chúa từ hang trở về”. Đến năm 1947, Phạm Duy đã rất rõ ràng con đường sáng tạo dựa trên nền dân ca của mình, ông gọi đó là “DÂN CA MỚI”, một thứ gamme phamduyrienne. Ông sử dụng thứ gamme này trong một loạt các ca khúc “Tiếng hát sông Lô”, “Về miền Trung”, “Tình hoài hương”… và đặc biệt là “Tình ca”.
“Tình ca” không chỉ là một đại diện xuất sắc cho gamme phamduyrienne, mà còn là tuyên ngôn sáng tác ca từ và tình yêu nước của Phạm Duy. Ông tâm sự: “Vào đầu thập niên 50, trong một cuộc phỏng vấn của phóng viên báo Đời Mới tại Saigon, tôi tuyên bố: Sau khi nói lên vinh quang và nhọc nhằn của dân tộc với nhạc kháng chiên, bây giờ tôi đi vào tự tình quê hương… Do đó, tôi cho đăng trên báo một tác phẩm mới là bài TÌNH CA (soạn cùng lúc với bài TÌNH HOÀI HƯƠNG). Bài này nói lên bản sắc quốc gia (identité nationale) nghĩa là những gì thuộc về một quốc gia thống nhất như: tiếng nói, cảnh vật và con người.”(15) Bài hát có hình thức như một lời hát ru với lời tự sự:
“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi
Mẹ hiền ru những câu xa vời
À à ơi ! Tiếng ru muôn đời
Tiếng nước tôi ! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi
Tiếng nước tôi ! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi”
“Tình ca” được ưa chuộng và chấp nhận bất kể ai thuộc chủ nghĩa chính trị nào, bởi nó chạm vào trái tim của mỗi người dân của một đất nước. Việc sáng tác dựa trên motif hát ru cũng dễ dàng khơi gợi tâm thức trẻ thơ với những ký ức bình yên của mỗi người nghe nhớ về tuổi thơ trong vòng tay ấm áp của mẹ. Phạm Duy đặt nhiều kỳ vọng và tâm tình vào “Tình Ca”: “Bản Tình Ca này không còn thẳng băng ruột ngựa như những bài ca kháng chiến trước đây. Bây giờ nó muốn gắn bó tất cả người dân trong nước bằng một tình cảm thống nhất: tôi yêu tiếng nước tôi, yêu đất nước tôi, yêu người nước tôi. Thật là may mắn cho tôi là nói lên được phần nào bản sắc quốc gia qua bản Tình Ca này… Định mệnh khiến cho tôi, một ca nhân tầm thường, qua một bản Tình Ca ngắn ngủi, đưa ra khái niệm con người Việt Nam với địa dư, lịch sử và tiếng nói chung của một dân tộc đã từng chia sẻ với nhau trên vài ngàn năm có lẻ. Tôi làm được việc này vì tôi có may mắn được đi ngang dọc nhiều lần trên bản đồ hình chữ S, gặp gỡ đủ mọi tầng lớp trong xã hội, nhất là được sống với những nổi trôi từ thời thơ ấu qua thời vào đời tới thời cách mạng kháng chiến. Bài Tình Ca được yêu thích ngay. Nó nói tới quê hương đất nước nhưng cũng nói luôn tới tiếng nói và con người. Là bài hát tình ca quê hương nhưng nó còn là bài hát tình tự dân tộc.” (16) Và có lẽ Phạm Duy đã đúng, dù Nam Bắc phân ly, ngả theo những chủ nghĩa chính trị khác nhau, nhưng tiếng nói chính là điểm chung gần gũi nhất ăn sâu vào tâm thức người Việt.
Tiếng hát to của Phạm Duy
Phạm Duy kể trong Hồi Ký rằng khi còn bé, mỗi lần họp họ, ông nhận ra rằng những người trong dòng tộc của ông đều nói rất to. “Nói to” trong một gia đình trí thức không thể hiện cho sự thô tục, mà thể hiện cho động lực biểu hiện mạnh mẽ. Bởi thế, âm nhạc của Phạm Duy, theo tôi thấy, luôn là “Tiếng hát to”. Như đã đề cập ở trên, ông viết bài Tiếng Hát To như một tuyên ngôn chính trị trong sáng tác của minh. Vốn là một gã du ca mơ mộng, tuổi trẻ của Phạm Duy chứng kiến những tranh chấp chính trị sau Cách mạng để rồi chán nản: “Nhưng bây giờ tôi hiểu được những gì mà nhà văn Jean Paul Sartre sẽ viết ra trong cuốn Les Mains Sales. Làm chính trị là phải bẩn tay. Ngụ ngôn La Fontaine đã nói : la raison du plus fort est toujours la meilleure. Tục ngữ ta còn có câu : được làm vua, thua làm giặc. Tôi chán chính trị là thế.” (17)
Không giống như Trịnh Công Sơn, Phạm Duy từng tham gia chiến đấu, cũng như Văn Cao từng tham gia biệt đội ám sát của Việt Minh. Ông tham gia cùng quân kháng chiến miền Nam sau năm 1946 với vai trò như một dân quân, tức là không có vũ khí và không được trang bị lương thực đầy đủ. Phạm Duy thú nhận rằng ông không quá lý tưởng hóa trong việc tham chiến này, cũng không đề cao tinh thần “đánh Tây”, ông tham gia vì bầu không khí ấy và vì “tếu táo” của tuổi trẻ thôi (lúc này mới 25 tuổi). (18) Nhưng đây chính là những trải nghiệm thực tế hiếm hoi đã làm nên chất bi hùng trong nhiều ca khúc yêu nước và phản chiến của Phạm Duy. Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn thường buồn thảm, nhưng nhạc phản chiến của Phạm Duy là sự phẫn nộ rất nam tính và đôi khi sống động như nói thay lời nạn nhân của cuộc chiến. Sau khi trở về miền Bắc vào khoảng năm 1947, Phạm Duy lại trở ra Bắc và di tản lên An toàn khu. Tại đây, ông tiếp tục chứng kiến những cảnh tượng kỳ thú của quá trình “bình dân học vụ hóa” và “xóa mù chữ” của “đoàn quân áo vải”:
“Dân quê bây giờ oai lắm. Nhà thơ Quang Dũng, qua một bài thơ đầu mùa kháng chiến, cho ta nghe thấy tiếng quát dân quân đầu vọng gác, và cho ta nhìn thấy cảnh vô cùng thân mật của anh tự vệ xách đèn chai lối xóm… Trước đây, ở thị thành, đời sống của chúng tôi bị tách rời ra khỏi đời sống chung của dân tộc. Bây giờ, chúng tôi được quay về với nếp sống thôn ổ, bỏ quên điện nước, bật lửa, trà tầu, làm quen với nùn rơm (tức là mồi rơm), thuốc lào, nước vối. Không có ai phản đối những sự thay đổi này cả. Nếu bây giờ có dăm ba điều mới thì nó cũng chẳng hề làm mất đi sự thi vị của đời sống thôn quê. Chẳng hạn qua chính sách bình dân học vụ, ở những cổng chợ bây giờ có người đứng gác. Ai không đọc được chữ i chữ tờ trên bảng phấn thì không được vào chợ. Rất độc tài nhưng cũng rất vui, nếu ta có dịp nhìn thấy các ông già bà già cười ngặt nghẽo khi bị khảo chữ. Các em bé quê bây giờ cũng được săn sóc một cách kỹ càng. Làng xóm xưa kia trầm lặng thì bây giờ nổi lên những tiếng trống ếch ròn rã, ai mà không thích?
Lúc này lại còn có thêm một chính sách gọi là đời sống mới được Chính Phủ đưa ra để khuyến khích mọi người thay đổi tác phong trong lối sống hằng ngày. Ngay từ những việc tầm thường nhất. Ví dụ trong bữa cơm tập thể, chúng tôi được dậy cho biết cách dùng đôi đũa theo lối mới nghĩa là dùng đầu đũa suôi để gắp đồ ăn, rồi và cơm bằng đầu đũa ngược. Ăn cơm mà cứ như là múa đũa vậy. Vấn đề vệ sinh công cộng rất được chú ý. Dù việc đại tiện vẫn là cái thú thứ hai sau cái thú được làm quận công, nhưng bây giờ ai đi đồng — đúng nghĩa vô cùng — thì phải mang theo cái xẻng. Rồi tới tác phong phê bình và tự phê bình. Người nào xưa nay có lối sống vị kỷ đến đâu thì bây giờ cũng phải hoà mình vào lối sống tập thể.” (19)
Phạm Duy cứ thế lang bạt kỳ hồ theo kháng chiến, không thuộc bất cứ tổ chức nào hay chịu sự quản lý của ai trong suốt những năm tháng ở An Toàn Khu, và ông không hề quá lời khi nhận mình là một người “Tự Do”. Với ông, Tự Do Cá Nhân cũng quan trọng như Tự Do Dân Tộc. Ông đi theo nghệ thuật, và đi theo kháng chiến cũng chính bởi vì hai chữ “Tự Do” ấy. Ông ví thân mình như con chuồn chuồn: “Nói đến con chuồn chuồn, sực nhớ ra chuyện cái tổ. Con chim nào thì cũng đều có tổ, hoặc ở trên những cành cây hay ở trên những mái nhà mà ai nhìn cũng thấy. Con ó, con diều còn làm tổ ở tận đỉnh núi đá. Con rắn, con chuột thì có tổ ở những nơi kín đáo nhưng nếu cần, ta vẫn có thể tìm ra cái tổ của nó. Con người, ngoài tổ ấm ra lại còn có cả tổ quốc nữa. Ngay cả đến con chấy, con rận mà cũng có tổ. Duy chỉ có con chuồn chuồn thì không ai biết cái tổ của nó ở đâu ? Nó mới thực là có tự do vậy.” (20) Qủa thực, Phạm Duy rời kháng chiến bỏ vào Nam cũng theo tinh thần ấy, như con chuồn chuồn vui thì đậu, chán thì bay. Những phản ứng ban đầu chỉ là sự khó chịu với lối tuyên truyền, sau đó là bực bội với các quan điểm kiểm duyệt và phê bình của kháng chiến… Những mâu thuẫn này vốn chỉ là vụn vặt, nhưng bước ngoặt có lẽ đến từ việc Phạm Duy từ chối đi Moscow, vốn là một vinh dự với bất cứ văn nghệ sĩ nào tham gia kháng chiến, với lý do Thái Hằng (vợ ông) đang mang thai tháng thứ Sáu và ông hoàn toàn không yên tâm với sự chăm sóc của đoàn thể cho cô nàng tiểu thư mong manh giữa rừng già. Cũng từ đây, thái độ của Phạm Duy thể hiện rõ nét sự chán ghét hơn, không còn những tếu táo, bay bổng nữa, mà thấu rõ hơn phẩm chất Tự Do của chính mình. Thêm nữa, tướng Nguyễn Sơn, người đỡ đầu cho gia đình của Phạm Duy đã bị thuyên chuyển do những mâu thuẫn với Hồ Chí Minh, khiến cho ông và người nhà bắt đầu dao động cân nhắc đến một cuộc “dinh tê”. Đây là một cân nhắc rất nghiêm trọng, bởi đại gia đình này sẽ phải từ bỏ bề dày đóng góp cho kháng chiến để vào vùng Pháp tạm chiếm, nhưng nếu ở lại vùng kháng chiến tiếp quản thì họ bị bỏ đói và không có nhiều cơ hội phát triển khi không chấp nhận mọi quy củ của đoàn thể. Và thế là, ngày 1/5/1951, khi quân kháng chiến đang tất bật lo cho ngày Lễ Lao Động truyền thống, Phạm Duy cùng đại gia đình họ Phạm Đình bên vợ đã chia làm ba nhóm để “dinh tê” và hẹn gặp ở Hà Nội. Hai tuần sau khi tới được Hà Nội, cả đại gia đình lập tức bay vào Sài Gòn, nơi họ có thể “bán tiếng hát” của mình để kiếm sống. (21)
Gia đình họ Phạm với sự giúp đỡ của bạn bè, bắt đầu ghi dấu ấn của mình tại Đài Pháp Á, một đài tuyên truyền của Pháp, nhưng không hề cưỡng ép các nghệ sĩ phải biểu diễn các ca khúc tuyên truyền. Cũng từ đài này, các ca khúc mà Phạm Duy sáng tác trong kháng chiến được biểu diễn và phát sóng, và nhận được hưởng ứng của đại đa số độc giả. Cũng trong những năm tháng mới vào Sài Gòn này, Phạm Duy đã làm sống dậy các ca khúc trữ tình của Văn Cao trong lúc Văn Cao đang vướng vào vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm ở miền Bắc. Cùng với gia đình họ Phạm, lúc này đã là dàn hợp ca Thăng Long lừng lẫy, ông tổ chức nhiều đêm nhạc hội, kiếm được tiền bằng bán vé và bán đĩa thu. (23) Dù sống bằng nghề hát, nhưng Phạm Duy chưa bao giờ từ bỏ truyền tải các tâm tư thời đại, ông không dễ hài lòng với những ca khúc tình tự trăng hoa mây gió. Ông khẳng định: “Dù luôn luôn chối từ đóng những vai trò chính trị viên hay chính trị gia nhưng tôi không bao giờ bỏ lỡ cơ hội dùng văn nghệ để bày tỏ thái độ chính trị của mình.” (24) Lời khẳng định này cho thấy Phạm Duy ý thức rất rõ ràng sự khác biệt của một người tự do quan tâm đến quốc gia đại sự với những người lao vào cuộc tranh chấp quyền lực giữa phe phái, bè đảng.
Năm 1954, ngay trong đà Việt Nam thắng trận Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneve được đặt lên bàn đàm phán. Lúc này, Phạm Duy đang sang Paris du học, tại đây ông được học bài bản hơn về nhạc lý phương Tây, đặc biệt là tiếp thu bí quyết soạn nhạc của DeBussy. Phạm Duy thừa nhận, ông chịu ảnh hưởng của DeBussy nhiều chục năm sau đó. (24) Khi nghe tin Hiệp định Geneve chia cắt hai miền Nam – Bắc Việt Nam, những nét nhạc học được từ âm nhạc DeBussy và tứ thơ yêu nước đã cất lên trong tâm thức của ông:
“Tôi đi từ ải Nam Quan sau vài ngàn năm lẻ
Chia đôi một họ trăm con đã lên đường
Năm mươi người ngược núi rừng
Ðã dựng vòng biên ải
Năm mươi người trẩy theo sông tới khơi chừng
Tôi theo người vượt quan san
Ơi người ơi Ơi người ơi”
Đó chính là Trường ca “Con đường cái quan”, bản trường ca đầu tiên và kinh điển nhất của Phạm Duy. Phạm Duy đã hoàn thành đoạn đầu “Từ miền Bắc” ở Paris. Sau khi về Sài Gòn năm 1955, với sự hỗ trợ phương tiện của kiến trúc sư Võ Đức Diên (lúc đó là chủ báo Sáng Dội Miền Nam) để ông đi từ Sài Gòn ra Quảng Trị lấy cảm hứng soạn nốt phần còn lại của “Con đường cái quan”. Đồng hành với Phạm Duy lúc này là họa sĩ Tạ Tỵ đang cộng tác với báo, và hai ông thầy bói nổi danh chuyên coi tử vi. Dù đã nhiều lần vào nam ra bắc, nhưng với Phạm Duy đây là chuyến đi thú vị hơn trước: “Tôi không còn là lữ khách lầm lũi trong thời nô lệ hay hấp tấp trong thời chiến tranh nữa. Xe hơi đưa chúng tôi đi ven bờ biển Thái Bình, vượt qua những nơi đầy ắp kỷ niệm như Phan Thiết sáng sủa, Nha Trang ấm áp, Quy Nhơn lộng gió, Đà Nẵng ồn ào, Huế thơ mộng và Quảng Trị cằn khô. Khi ghé Quảng Ngãi, Hồng Vân (nữ ca sĩ) lúc đó còn bé tí teo, leo lên bờ tường khách sạn, ngồi rình xem mặt Phạm Duy. Chúng tôi có những giây phút trầm ngâm trước cảnh tượng hùng vĩ của Đèo Cả, Đèo Hải Vân” (25)
Sau “Con đường cái quan”, Phạm Duy tiếp tục sáng tác các nhạc phẩm đồ sộ khác như trường ca “Mẹ Việt Nam”, ca kịch “Chức Nữ về trời” và “Tấm Cám”. Nhưng sau Biến Cố 11-63 (Ngô Đình Diệm bị đánh đổ) kéo theo đảo chính, xuống đường, chiến tranh leo thang, Phạm Duy đã chọn hình thức biểu hiện nhanh hơn, trực diện hơn: những ca khúc nhỏ. Ông sáng tác nhiều chùm 10 ca khúc như “Tâm ca”, “Tâm phẫn ca”, Bình ca”, “Rong ca”…
Mỗi chùm gồm 10 bài với đề tài và hình thức khác nhau nhưng thống nhất trong thái độ. Phạm Duy ở đầu với Tâm Ca, như những điều tâm niệm “nói thẳng vào một xã hội nát tan trước mặt trong thời đại này”. (26) Chùm “Tâm ca” gồm 10 bài: Tôi ước mơ, Tiếng hát to (mà tôi đã trích ở trên), Ngồi gần nhau, Giọt mưa trên lá, Để lại cho em, Một cành củi khô, Kẻ thù ta, Ru người hấp hối, Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát với tôi. Trong số này có những bài thuần túy do Phạm Duy sáng tác cả nhạc và lời, có những bài phổ nhạc của thiền sư Nhất Hạnh. Có những bài là lời tâm tình mong ước hòa bình, xót thương cho những số phận bất hạnh, là những băn khoăn hoài nghi trong thời đại, nhưng có những bài là “tiếng thét” phản kháng trước thời đại. Bên cạnh “Tiếng hát to” phải kể đến “Kẻ thù ta”:
“Kẻ thù ta đâu có phải là người
Giết người đi thì ta ở với ai ?
Kẻ thù ta tên nó là gian ác
Kẻ thù ta tên nó là vô lương
Tên nó là hận thù
Tên nó là một lũ ma (thế thì)
Kẻ thù ta đâu có phải là người
Giết người đi thì ta ở với ai ?
Kẻ thù ta mang áo mầu chủ nghĩa
Kẻ thù ta mang lá bài tự do
Mang cái vỏ thật to
Mang cái rổ danh từ
Mang cái mầm chia rẽ chúng ta”
Chùm “Tâm ca” nhanh chóng chạm đến trái tim của nhiều người, không chỉ trong nước mà còn quốc tế, đặc biệt là ở Mỹ. Lúc bấy giờ, tại Sài Gòn, lối nhạc trẻ mới đang thịnh hành với nhiều bản tình ca, nhưng Phạm Duy đã quyết định đi ngược lại xu hướng, quyết tâm “không biết những bài hát bọc đường”. Giới nhạc sĩ trẻ và các thính giả trẻ, thật bất ngờ, lại nhiệt tình hưởng ứng “Tâm ca”, thậm chí còn tham gia Phong Trào Du Ca do chính Phạm Duy phát động nhằm sáng tác và biểu diễn các bài ca phi thương mại, nhằm phản ánh thẳng thánh hiện thực xã hội. “Tâm ca” đã bắt nhịp được với những nỗi niềm và mong cầu của thời đại, mà chính Phạm Duy đã nhận ra sau này: “Lúc đó Phương Tây cũng đang học hỏi về Thiền của Phương Đông, sách vở ùa vào Việt Nam vì không bị hạn chế như thời ông Nhu trước đây. Rồi phong trào hippy cũng tràn vào cùng với những sách như CÂU CHUYỆN MỘT DÒNG SÔNG với Tất Đạt Đa, sách của Herman Hess, nhạc dân ca có giọng điệu phản chiến của Pete Seeger, tất của đều là sự tìm hiểu và làm quen với Thiền trong giai đoạn dễ hiểu và ngộ nghĩnh của nó. Những ý niệm về hòn đá, về hoa, về những công án trở nên rất quen thuộc với giới trẻ nên lúc đó tuổi trẻ Việt Nam đi vào Phật Giáo với hình ảnh khá tinh vi của Thiền môn, của Vô Môn Quan, của Thiền Luận, của Suzuki… Và đột nhiên những hình ảnh đó xuất hiện trong Tâm Ca vì tôi cũng bị lôi cuốn vào cuộc hành trình về phương Đông này. Tôi áp dụng những gì tôi hiểu về Thiền vào tình thế, nghĩa là vào hoàn cảnh người vẫn chết, hoa vẫn nở, súng vẫn nổ, tiếng hát vẫn to, bụt ngồi chung với kẻ sát nhân, con người chia sẻ vui buồn với cành củi khô hay hòn đá cuội…” (27)
Sau “Tâm ca” là chùm “Tâm phẫn ca”, với hình thức “rất ư là tả thực”, với những giai điệu “trơ trụi, xác xơ, cục cằn”, nhằm phản ánh cơn giận dữ trước những cảnh giết chóc của chiến tranh. “Tâm phẫn ca” không còn là lời than hay lời kêu gọi, tố cáo nữa, mà mỗi lời ca nét nhạc đều khắc họa chân thực từng đường nét u ám của cuộc chiến, tựa như những bức tranh của Francis Goya. Trong lời dẫn “Tâm phẫn ca”, Phạm Duy cho biết: “Mùa Xuân 1968 đến với biến cố Tết Mậu Thân. Chiến tranh vào thành phố, Cái chết được chúng tôi nhìn thấy tận mắt, sờ được bằng tay. Thế nhưng chúng tôi lại thản nhiên lạ thường trước xác người nằm trên vũng máu đào hay trên mảng máu khô.” (28) Các bài hát trong “Tâm Phẫn Ca” đều phổ thơ của những nhà thơ trẻ lúc bấy giờ, những nhà thơ chưa có sự gọt giũa về bút pháp, và nhờ vậy mà hiện thực được lột tả chân thực nhất:
“Người lính trẻ chết trận ngoài khơi
Nên không nghe chủ nghĩa tuyệt vời
Người lính trẻ chết trận bờ ao
Không giương danh một chế độ nào
Người lính trẻ chết trận còn đâu
Nên không lâu, nổ vỡ địa cầu
Người lính trẻ chết trận rồi nghe !
Xin nghe đây tận thế gần kề
NGƯỜI LÍNH TRẺ…
CHẾT TRẬN CÒN CHI !
CÒN CHI ?”
(Trích “Người lính trẻ)
hay:
“Tôi vào quê hương bằng cuộn dây thép gai
Ðồng cỏ cha tôi, tôi trói gô hình hài
Tôi đào thông hào, trồng cây chông nhọn hoắt
Tôi giơ tay cao, tôi cấu tôi cào
Tôi vào quê hương bằng xe traction
Chở mìn clay-mo, plát-tíc đi ngoài đường
Tôi đặt lên sườn Mẹ Việt Nam gầy ốm
Ôi Mẹ tan tành ! Ôi Mẹ phanh thân!”
(Trích “Đi vào quê hương”)
Những giai đoạn chính trị phức tạp này cũng là lúc Phạm Duy sáng tác “Vỉa hè ca” và “Tục ca” phản ánh cơn phẫn nộ và tố cáo của những người bình dân. Có lẽ, ông đã kết thúc cảm hứng sáng tác hiện thực xã hội với “Bình ca” vào năm 1972. “Bình ca” có thể được hiểu là những bài ca hòa bình, nhưng ông không xưng tụng hòa bình đạt được trên bàn ký kết Hội nghị Paris, cũng không tuyên truyền về hòa bình thế giới, ông muốn bày tỏ hòa bình trong lòng người và ước mong dân tộc trở về với niềm vui bình dị: “Tuy nhiên, 9 bài hát mới soạn (cộng với bài NGÀY SẼ TỚI đã có sẵn) cũng không hẳn là những bài hát nói tới hoà bình trên đất nước. Nó chỉ muốn nói đến hoà bình trong lòng người mà thôi! Tại sao vậy? Tại vì tôi không tin là có hoà bình…” (29) Năm 1972, hòa bình quả thực chưa đến với Việt Nam, 10 bài “Bình ca” là tưởng tượng của Phạm Duy về ngày hòa bình mà trong đó bất cứ ai cũng mong muốn sống một cuộc đời hoàn toàn bình thường:
“Sống sót trở về, tôi tạ từ vũ khí
Sống sót trở về, tôi trở lại nhỏ bé
Sống sót trở về, đeo một bầu rượu quý
Sống sót trở về, vui một mình… tôi đi!”
(Trích “Sống sót trở về”)
Cõi Về của Phạm Duy
Cuộc đời của Phạm Duy luôn là những cuộc thiên di, đúng như ông thường tự giễu mình là con bướm đậu rồi lại bay hay con chuồn chuồn không biết tổ ở đâu hay gã du ca. Nhưng có lẽ, hình ảnh gần gũi với ông hơn có lẽ là đám mây, dù rằng đám mây ít khi xuất hiện trong tác phẩm của ông. Mở đầu tập 1 trong 4 cuốn Hồi Ký của mình, Phạm Duy kể một câu chuyện rất thú vị:
“Tôi ra đời tại nhà hộ sinh ở số 40 Rue Takou (phố Hàng Cót) Hà Nội vào lúc 1 giờ 15 sáng ngày 05 tháng 10 năm 1921, theo âm lịch là ngày mùng 5 tháng 9 (nhuận) năm Tân Dậu. Trước đó vài giờ, mẹ tôi còn đang ôm bụng ngồi đánh tổ tôm với mấy bà bạn và với Bác Hàn Làng Vẽ.
Mẹ tôi vừa ù xong ván bài tổ tôm thì dở dạ và người nhà vội vàng đưa vào nhà đẻ. Do đó, khi tôi lớn lên, mỗi lần gặp Bác Hàn là bác nhắc tới chuyện ván bài tổ tôm và gọi tôi là thằng Tôm. Ai ngờ bây giờ về già, tôi cũng trở thành một thứ Uncle Tom.
Tuy luôn luôn đắc ý cho rằng mình ra đời trong một canh bạc thắng của mẹ, nhưng khi lớn lên thằng Tôm này lại khoái với cái tên tự do chính mình đặt ra là Mộng Vân. Vì sao ? Vì trong một lúc quá yêu Tôm, mẹ buột miệng nói rằng đã nằm mơ thấy những đám mây trong thời kỳ có mang… Lại cũng là một cái tên tiền định. Thằng Tôm sẽ như mây, lang thang suốt đời. Và khi du nhập vào nghề hát rong thì đụng ngay một đoàn hát Cải Lương mang tên Gánh Mộng Vân.”
Một đám mây đến từ đâu và đi về đâu, không ai rõ, nhưng sự hiện diện của đám mây thơ thẩn trên tầng không cũng đủ để làm nên vẻ lãng mạn trong hành trình của nó. Dù đôi khi, đám mây tức giận cọ xát tạo nên sấm rung chớp giật, nhưng bình phàm, đám mây vẫn bồng bềnh lang thang. Phạm Duy là vậy, một gã du ca của tình yêu, yêu những người phụ nữ, yêu vẻ đẹp của con người, của cảnh sắc đẹp đẽ, yêu vạn vật sinh tồn trên đời. Phạm Duy đã thốt lên:
“Ơi người ơi, hãy lắng tai
Nghe hồn tôi trong nắng mai
Trong làn gió mới, trong đêm tối
Trong giọt mưa dài, suốt năm tháng ngày
Yêu người, yêu hoài
Tôi còn yêu, tôi cứ yêu
Tôi còn yêu, tôi cứ yêu”
(Trích “Tôi còn yêu, tôi cứ yêu”)
Phạm Duy viết rất nhiều tình ca, cũng giống như ông qua lại với rất nhiều phụ nữ từ mọi tầng lớp, hoàn cảnh. Phạm Duy chưa bao giờ giấu diếm những mối quan hệ ấy, cũng không giấu diếm những tiếc nuối khi bỏ lỡ cơ hội ái ân với một người phụ nữ khiến ông yêu thích. Trong rất nhiều tình yêu, tình yêu trai gái là biểu hiện cụ thể nhất của tình yêu, đặc biệt với người nghệ sĩ, thứ tình yêu này còn là niềm cảm hứng. Có lúc, ông bắt gặp cảm xúc yêu đương trong những bài thơ tình như “Ngậm ngùi”, “Em hiền như maseur”, “Cô em Bắc kỳ nho nhỏ”, “Đưa em tìm động hoa vàng”, “Đừng bỏ em một mình”… Có lúc là tiếc nuối chia xa với người tình cũ:
“Nghìn trùng xa cách
Người đã đi rồi
Còn gì đâu nữa
Mà giữ cho người
Trả hết về người
Chuyện cũ đẹp ngời
Chuyện đôi ta
Buồn ít hơn vui
Lời nói, lời cười
Chuyện ngắn, chuyện dài
Trả hết cho người
Cho người đi”
(Trích “Nghìn trùng xa cách”)
Có khi là mối tình sâu nặng dành cho người tình lý tưởng giữa tuyệt vọng cô đơn:
“Tìm nhau trong bom lửa
Tìm nhau trong mưa bão
Tìm nhau trên kinh đô xây trong xương máu
Tìm nhau trong thống khổ
Tìm nghe câu than thở
Tìm nhau như goá phụ tìm mộ bia.
Tìm đâu môi em đỏ
Tìm đâu mây trong mắt
Tìm cho ra mái tóc ngây thơ đó
Tìm xem trong kinh sử
Tìm tương lai sáng tỏ
Tìm nhau khi nhân loại được trùng tu.”
(Trích “Tìm nhau”)
Không giống như những nghệ sĩ bị ám ảnh trong mặc cảm Pygmalion, chỉ yêu hình bóng lý tưởng của tình yêu, Phạm Duy là một người hoàn toàn hiện thực nhưng cũng mơ mộng. Tức là, ông vừa yêu người tình hiện hữu (dù ông có rất nhiều người tình), cũng vừa yêu cả người yêu lý tưởng không thực sự hiện hữu trên thế gian. Điều đó có nghĩa là Phạm Duy vừa yêu người yêu và cũng yêu cả trạng thái yêu. Và bởi thế, “tình” chính là cõi về của Phạm Duy sau rất nhiều đớn đau, giận dữ của phận người chìm nổi trong loạn lạc.
Nhiều nhà phê bình đánh giá cao chùm “Đạo ca” (phổ thơ Phạm Thiên Thư) và “Thiền ca” của Phạm Duy. Bản thân Phạm Duy cũng rất tâm đắc với hai trải nghiệm tâm linh bằng âm nhạc này của mình. Có lẽ, ông đã tìm thấy ở Thiền và Đạo bình yên tâm hồn sau bao đớn đau, cay đắng, giận dữ, tuyệt vọng… Mỗi ca khúc trong những chùm này là hành trình gỡ bỏ những chấp niệm trong suốt một đời người chứ chưa chứa đựng được tâm cảnh của một bậc đắc đạo hay một tâm hồn tự do. Điều đó khiến cả “Thiền ca” và “Đạo ca” dù siêu thực với những triết lý tâm linh sâu sắc, nhưng vẫn chỉ thỏa mãn lý trí của người nghe chứ chưa chạm vào tầng sâu tâm thức. Suy cho cùng, chừng nào người ta còn lậm quá nhiều ngôn ngữ của Thiền, của Đạo tức là chưa đạt đạo vậy.
Tôi tìm thấy cõi giới tâm thức của Phạm Duy không nằm ở những vỏ ngôn từ ấy, mà thấp thoáng trong những khoảnh khắc mênh mông, chẳng bị trói buộc bởi tôn giáo hay bất cứ giới hạn nào. Tôi tìm thấy ông ở chính 10 bài “Rong ca” được viết năm 1988. Ông kể rằng, năm 1986, kỷ niệm 10 năm xa xứ, ông đã ngưng sáng tác và một thời gian dài sau đó ông hoàn toàn nghỉ ngơi và rong chơi. Cho đến một ngày, ông tiếp xúc với người Việt thế hệ hai tại San Francisco, và cũng trong cuộc đi ấy, ông gặp lại người tình cũ của mình, cảm hứng ùa về, thế là “Rong ca” ra đời. “Rong ca” gồm các bài: Người tình già trên đầu non, Hẹn em năm 2000, Mẹ năm 2000, Mộ phần thế kỷ, Ngụ ngôn mùa xuân, Nắng chiều rực rỡ, Nghìn thu, Trăng già, Ngựa hồng, Rong khúc. Mặc dù “Rong ca” có ca từ và nét nhạc giản dị, nhưng là sự đúc kết cuộc đời của chính Phạm Duy và cả những nhắn nhủ của ông cho thế hệ sau. Trong số ấy, “Ngụ ngôn mùa xuân” đã vịnh sự hiện diện của Phạm Duy giữa thời thế bằng một lối tự sự hóm hỉnh và giàu hình tượng. Ông kể rằng “có hai thằng mù đã câm, lại điếc” nhưng cứ vật lộn đánh nhau khắp nơi, chúng là hai kẻ còi cõm bị “hai thằng mập” xua vào trận chiến để rồi tìm đến hòa giải “bằng xương, bằng máu, thịt, da”. Giữa cảnh trớ trêu ấy, Người Tình xuất hiện (mà cõi nhạc của ông chính là hiện diện của nguyên mẫu Người Tình này):
“Bỗng đâu Người Tình ghé chơi một chuyến
Vào khi tàn rồi, cái cũ bách niên
Bỗng đâu nửa đêm ánh dương chói rạng
Làm cho người mù mắt sáng bừng lên
Bỗng đâu Người Tình ghé tai người điếc
Nói chi chẳng biết, mà nghe dịu dàng
Ðời hai nghìn đã vừa sang.
Ðã trông được thời bách niên đổi mới
Ðã nghe được lời sáng suốt bên tai
Ðã không còn câm và im tiếng gọi
Ðã nói được lời vói tới tương lai
Ðã ra được ngoài cõi tim tù tối
Ðã trông được những đường đi, nẻo về
Ðường đưa người tới nghìn thu.”
Người Tình chính là cảnh giới cao nhất trong sự phát triển tâm linh của Phạm Duy, không phải Phật hay Chúa. Đã nhiều lúc Người Tình hiển lộ bên trong Phạm Duy, Người Tình ấy là một áng mây không ràng buộc, nhưng có thể đi đến bất cứ đâu. Ngay cả trong những năm tháng chìm trong khói lửa chiến tranh, đã có những lúc Người Tình hiển lộ và ghi dấu trong ca khúc “Mộng du”. “Mộng du” là một ca khúc đặc biệt, nó khác hẳn mọi ca khúc khác của Phạm Duy. Nó không bị gắn với bất cứ bối cảnh nào, Phạm Duy chưa từng kể gì về nó, có lẽ bởi nó được viết trong trạng thái “mộng du”, tức nửa mơ nửa tỉnh. Nếu các bài hát khác hoặc là hiện thực, hoặc là lãng mạn, hoặc là siêu hình tâm linh, hoặc là u ám, thì “Mộng du” là một bài thơ tượng trưng.
“Ðêm đêm người mở lòng ra
Ôm ta trong cõi mơ hồ
Giã từ đời bằng hơi gió
Hoá hồn theo cánh mây xa.
Ta đi bằng một sợi tơ
Lung linh luồn trong khói mờ
Ta treo hồn vào tình Thu
Thấy mình trôi loãng trăng loà”
Tôi không rõ tại sao Phạm Duy chưa từng nói gì về “Mộng du”, các nhà phê bình cũng gần như bỏ qua ca khúc đơn lẻ này. Bài viết duy nhất đề cập đến “Mộng du” mà tôi đọc được nằm trong cuốn sách “Nửa thế kỷ Phạm Duy” của nhà văn Xuân Vũ. Nhà văn Xuân Vũ đã chạm đến trạng thái sâu của Phạm Duy mà chính Phạm Duy không bao giờ đề cập đến ở bất cứ phát biểu nào của mình: “Đây là tình cảm của một con người đi vào cõi mộng, nhưng giấc mộng này khác mộng thường. Đã là mộng thì phải mơ hồ, nhưng mộng du là siêu mơ hồ. Ở bài Mộng Du linh hồn thay người, sự ”có” hay ”không” lẫn lộn, sự tan hợp nối liền, cái chết và sống không có ranh giới, con người và tinh tú không có sự ngăn cách, sắc sắc không không, hư hư thực thực, như một sơi tơ lung linh luồn trong khói mờ, thấy đó mà níu không được vì nó đã hòa vào phấn bướm xanh lờ, trôi theo dòng tinh tú…” (30) Cụ thể hơn, “Mộng du” là trải nghiệm linh hồn của Phạm Duy, khi linh hồn không bị giới hạn trong thể xác, có thể cảm nhận được trạng thái “thinh không” mà sau này ông đã cố dùng ngôn ngữ của Thiền để viết trong bài mở đầu “Thiền ca”. Trong trạng thái linh hồn ấy, ông nhập thể vào vạn vật để cảm nghiệm sự mong manh, hư vô của số phận… để rồi phiêu dạt theo lời ca tứ thơ trở lại với đời.
“Mộng du” được viết tại Sài Gòn năm 1959, tức là giữa những năm tháng Phạm Duy đang say mê với các trường ca thời đại. “Mộng du” có lẽ đã nảy lên trong những khoảng ngơi nghỉ, khi không có áp lực gì, khi âm nhạc không phải chở trên mình gánh nặng giang sơn hay phận người, thậm chí còn không bận tâm đến các cách tân nghệ thuật, vì thế nó chẳng liên quan gì đến toàn bộ bối cảnh, và có lẽ chính Phạm Duy cũng chẳng mấy nhớ đến ca khúc này trong số hơn 900 ca khúc của cả cuộc đời ông. Trạng thái ấy có lẽ chỉ đến khi ông viết “Rong khúc” tôi mới bắt gặp lại, một cảm giác nhẹ tênh:
“Thôi nhé, cho anh giã từ trái đất
Anh đã nghe vang tiếng gọi càn khôn
Nhưng nếu Em yêu muốn vào cõi lớn
Anh sẽ cho Em dắt tay lên đường
Một đường hành tinh
Ði thăm những Thái Dương
Anh dắt tay Em đi vào Ngàn Mai
Anh khoác vai Em bước về Ngàn Xưa
Ta sẽ quên như có mình nơi đó
Ta sẽ quên như có Ta nơi này
Và lộ trình Ta… miệt mài.
Ta vứt sau ta những nẻo đường trần
Ta vút bay theo những nẻo đường tiên
Nhưng nếu mai sau, ai gọi Người Tình
Anh sẽ quay lưng bước về nẻo xanh.”
Ngày trở về của Phạm Duy
Dẫu biết cõi về ở chốn khác, nhưng Phạm Duy vẫn luôn tha thiết được trở về Việt Nam, nơi ông gắn bó gần hết cuộc đời của mình, ông viết trong Hồi Ký: “Nhưng Người Tình vẫn không quên mình là người Việt Nam, với tinh thần quốc gia dân tộc không thể nào phai nhạt.” (31) Phạm Duy tha thiết về nước vì nhiều lẽ nhưng tôi cho rằng vì ông tha thiết nhớ cảnh sắc quê nhà và nhớ những con người xưa giờ cũng già nua sắp đi đến cõi tận không biết kiếp nào có thể gặp lại. Phạm Duy đã không thể về viếng Trịnh Công Sơn, người bạn nghề luôn gắn bó (dù người đời có thêu dệt nên bao nhiêu câu chuyện mâu thuẫn về hai ông), cũng không thể ở bên và viếng Văn Cao – “thằng bạn thân” đã khuyến khích Phạm Duy bước vào sáng tác từ thời trai trẻ.
Phạm Duy cho biết, từ năm 1986, những người bạn văn nghệ miền Bắc đã từng tìm cách để đưa ông trở về với quê hương: “Chế Lan Viên viết về những chuyến đi thực tế vào mặt trận Tây Nguyên, Bình Trị Thiên hay đi nhiều nơi khác của một số văn nghệ sĩ có tên trên đây. Và bây giờ — 1986 — tất cả đã già nhưng vẫn có mặt ở đây, đã như những chiếc lá rụng về cội… Chỉ trừ có Phạm Duy ! Đọc được bài này, tôi cũng rất là cảm động ! Nhất là khi thấy trong bài viết, anh Chế Lan Viên không che dấu chuyện tỉnh ủy Thừa Thiên có gợi ý nên kết nạp tôi vào Đảng.” (32) Dẫu vậy, phải khi Việt Nam vào WTO năm 2005, Phạm Duy mới thực sự được quay về đất nước. Và một lần nữa, ông lại bỏ lại toàn bộ gia sản cùng gia đình bên Mỹ để trở về với những con đường quen thuộc và những ký ức ở Sài Gòn: “…đây đâu phải là lần đầu tiên tôi bỏ hết mà ra đi. Tôi đã ra đi nhiều lần. Từ Hà Nội vào kháng chiến. Từ kháng chiến vào thành phố, rồi vào Sài Gòn. Từ Sài Gòn, tôi lại bỏ hết đi sang Mỹ.” (33)
Khi Phạm Duy trở về Việt Nam, báo chí chính thống Việt Nam chào đón ông rất nồng nhiệt. Công ty văn hóa Phương Nam đã lập tức ký kết phát hành các album ca khúc được cấp phép biểu diễn của ông, cùng với các khảo cứu và hồi ký của ông. Dẫu vậy, rất nhiều ca khúc của ông, đặc biệt là ca khúc phản chiến đã không vượt qua được kiểm duyệt, và “Hồi Ký Phạm Duy” 4 tập cũng gặp phải rất nhiều khó khăn khi xuất bản tại Việt Nam, do đó, bộ Hồi Ký đồ sộ này chủ yếu được lưu hành trên Internet để đảm bảo độ chân thực. Tuy nhiên, chính thị trường băng đĩa lậu (sau này là Internet) và các phòng trà đã giúp nhạc Phạm Duy được lưu truyền rộng rãi trong nước. Trong khảo sát về thị trường băng đĩa lậu, Dale Olsen cho biết: “Tháng Sáu năm 2004, tôi đến thăm Đà Lạt nằm ở vùng Tây Nguyên, nơi các cửa hàng CD bán hàng trăm đĩa nhạc vàng lậu chất lượng rất cao được thu âm ở California, mặc dù việc bán và sở hữu chúng ở Việt Nam là bất hợp pháp (Vàng Bảo Thúy, phỏng vấn cá nhân, 7 tháng Sáu, 2004). Một số lượng lớn đĩa nhạc vàng tôi thấy bán thể hiện các ca khúc do Phạm Duy sáng tác.” (34)
Tôi đã thử search về Phạm Duy trên Google Trend để có được biểu đồ tỉ lệ tra cứu về ông từ 2004 đến nay. (35) Biểu đồ cho thấy mối quan tâm về ông trong năm 2004 còn rất cao (thật kỳ lạ khi không có dữ liệu vào đầu năm 2005, khi ông về nước và báo chí viết về ông rất nhiều), mức độ quan tâm cao kéo dài đến hết 2006 và từ 2009 bắt đầu suy giảm ở mức trung bình, kéo dài tình trạng này đến 2019, và chỉ bắt đầu nhỉnh lên từ 2020, đến 2024 đã về ngang mức với 2006. Thật khó để biết được điều gì quyết định đến độ ảnh hưởng của Phạm Duy trong mối quan tâm của khán giả, nhưng rất dễ để nhận ra rằng các ca sĩ trẻ người Việt trong nước hiện nay không hát nhạc Phạm Duy như lứa các ca sĩ Quang Dũng, Bằng Kiều, Đức Tuấn. Có lẽ, trong thời đại của thứ âm nhạc “fastfood” đòi hỏi sự viral, họ không hoặc chưa thể cảm được nét nhạc cũng như cõi hồn của ông, cũng không dễ để xử lý những kỹ thuật phức tạp trong âm nhạc của ông, hoặc đơn giản rằng không có chủ trương văn nghệ nào khuyến khích biểu diễn lại Phạm Duy. Nhưng điều này cũng chẳng quan trọng lắm, bởi Phạm Duy đã về với Cõi Về của ông, còn âm nhạc của ông đã quen thuộc với tầng lớp trí thức Việt Nam và cộng đồng người Việt hải ngoại tới mức có thể nghe đi nghe lại các bản trình bày cũ của Thái Thanh, Duy Quang, Thái Hiền… và của chính Phạm Duy mà không bao giờ thấy chán.
Hà Thủy Nguyên (Bài viết kỷ niệm ngày mất của Phạm Duy, 27/1/2013 – 27/1/2025)
Chú thích:
- Trang 43, Ánh sáng trong bóng tối, S.L Frank, Nguyễn Văn Trọng dịch, NXB Tri Thức
- Trang 7,8,9 – “Âm nhạc học và hành”, Phạm Duy, tái bản lần I, NXB Thế Giới & Phương Nam Book, 2017.
- Chương 2, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 2: https://drive.google.com/file/d/1xcrryehkOP8VNJABupJstKc9vFkVRw6F/view?usp=sharing
- Chương 2, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 3: https://drive.google.com/file/d/1NGctjY2iz1Doa35F2sthMn3gfe72-DLA/view?usp=sharing
- Chương 5, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 3
- Trang 43,44,45 – “Thi ca luận”, Aristotle, Hà Thủy Nguyên dịch, Book Hunter & NXB Đà Nẵng, 2024.
- Chương 19, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 3
- Trang 44, “Tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu”, Phạm Duy, Phương Nam Book, NXB Thế giới, 2017
- Trang 190, “Nhạc đại chúng Việt Nam”, Dale Olsen, Phạm Danh Việt dịch, Book Hunter & NXB Đà Nẵng, 2024.
- Trang 17, Văn Cao người đi dọc biển, Nguyễn Thụy Kha, Nhà xuất bản Phụ nữ & Công ty sách Phương Đông, 2011
- Chương 5, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 3
- Trang 92 đến 113, “Tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu”, Phạm Duy, NXB Thế Giới & Phương Nam Book, 2017.
- Trang 18,19,20, “Âm nhạc: Học và hành”, Phạm Duy, NXB Thế Giới & Phương Nam Book, 2017.
- Trang 22, “Âm nhạc: Học và hành”, Phạm Duy, NXB Thế Giới & Phương Nam Book, 2017.
- Trang 255, “Vang vọng một thời”, Phạm Duy, NXB Hồng Đức & Phương Nam Book, 2014.
- Trang 259, 260, “Vang vọng một thời”, Phạm Duy, NXB Hồng Đức & Phương Nam Book, 2014.
- Chương 5, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 2
- Chương 9, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 2
- Chương 13,“Hồi ký Phạm Duy” Tập 2
- Chương 24, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 2
- Chương 33, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 2
- Chương 35, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 2
- Chương 1, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 3
- Chương 5, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 3
- Trang 31, “Âm nhạc học và hành”, Phạm Duy, tái bản lần I, NXB Thế Giới & Phương Nam Book, 2017.
- Trang 52, “Âm nhạc học và hành”, Phạm Duy, tái bản lần I, NXB Thế Giới & Phương Nam Book, 2017.
- Chương 14, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 3
- https://phamduy.com/en/am-nhac/chuong-khuc/tam-phan-ca/5287-viet-ve-tam-phan-ca
- https://phamduy.com/en/am-nhac/chuong-khuc/binh-ca/5185-cho-hoa-binh-trong-long-nguoi-binh-ca
- https://phamduy.com/vi/viet-ve-pham-duy/nua-the-ky-pham-duy-xuan-vu/5821-chuong-10-nhung-giac-mong
- Chương 20, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 4: https://drive.google.com/file/d/1j2RI0IPWTBjVQMNoBWoRyfBZbzh6swQ1/view?usp=sharing
- Chương 21, “Hồi ký Phạm Duy” Tập 4
- https://phamduy.com/en/am-nhac/chu-de/ngay-tro-ve/5414-vai-gio-truoc-khi-ve-viet-nam-nhac-si-pham-duy-adieu-midway-city
- Trang 315, “Nhạc Đại Chúng Việt Nam – Chuyển đổi xã hội giữa hai miền nhớ quên”, Dale A.Olsen, Phạm Danh Việt dịch, Book Hunter & NXB Đà Nẵng, 2024
- Biểu đồ tra cứu Google Trend vào ngày 27/1/2025 (kỷ niệm ngày mất của Phạm Duy)
*Trong quá trình chuẩn bị tư liệu cho bài viết, tôi đã lưu 4 tập Hồi Ký của Phạm Duy trong Google Drive, xin được chia sẻ tại ĐÂY. Hi vọng bộ Hồi Ký có thể giúp bạn đọc hiểu hơn về tâm tư và cuộc đời của ông.
