Home Soát Cổ phần vàng (golden share) và câu chuyện quản lý Big Tech tại Việt Nam

Cổ phần vàng (golden share) và câu chuyện quản lý Big Tech tại Việt Nam

Gần đây các thông tin đồn thổi về một thỏa thuận có khả năng tái định hình hoàn toàn thị trường kỹ thuật số Đông Nam Á đó là thương vụ sáp nhập “bom tấn” tiềm năng giữa gã khổng lồ gọi xe và giao hàng Indonesia là GoTo và cái tên cùng ngành nhưng của Singapore là người khổng lồ Grab. Đặc biệt khi vừa mới đây CEO đương nhiệm của GoTo, người được cho là có quan điểm phản đối sáp nhập, sẽ từ chức để nhường chỗ cho CEO mới, một bước đi được nhiều bên cho là để hướng đến mục tiêu tái khởi động thương vụ của GoTo. 

Bài viết này không định đi sâu vào các vấn đề chi tiết mua bán sáp nhập hai ông lớn này, mà muốn khai thác một điểm thú vị trong thương vụ tiềm năng trên. Đó là thông tin do tờ Financial Times đưa ra rằng hai hãng gọi xe này đang đàm phán đề nghị của quỹ tài sản quốc gia Indonesia về việc nhận một “cổ phần vàng” (golden share) để được bật đèn xanh cho thương vụ sáp nhập. Thương vụ sáp nhập nếu thành công sẽ tạo ra một thực thể hợp nhất với vốn hoá thị trường lên đến 24 tỷ USD và kiểm soát khoảng 90% thị trường gọi xe và giao đồ ăn khổng lồ của Indonesia.

Bài viết này sẽ đi tìm hiểu một số thông tin về cổ phần vàng và cùng kết nối bức tranh để hiểu về việc các nhà nước sử dụng golden share như 1 công cụ quản lý, cụ thể ở các trường hợp dưới đây là quản lý những gã khổng lồ Big Tech của quốc gia hay khu vực. Tại sao là Big Tech vì Big Tech hiện nay thực sự đã đóng vai trò rất lớn trong các nền kinh tế và thậm chí trở thành các tài sản cấp quốc gia, trở thành một trong những đầu tàu của toàn bộ nền kinh tế. Có thể đơn giản nhìn Big Six (Big 6) dẫn đầu vốn hoá thị trường chứng khoán Mỹ thì đều là cổ phiếu công nghệ, và khi bạn nhặt ra 1 Big bất kỳ thì vốn hoá của nó đã vượt qua GDP hàng năm của rất nhiều quốc gia trên thế giới.

“Cổ phần vàng” là gì?

Vậy “cổ phần vàng” (sau đây gọi “golden share” hoặc “cổ phần vàng” đều nói về cổ phần vàng) là gì? Cổ phần vàng là một loại cổ phần doanh nghiệp mà Nhà nước nắm rất ít, thường chỉ từ 1-2% tổng lượng cổ phần của doanh nghiệp, nhưng đi kèm theo quyền phủ quyết (veto) đối với các quyết định thuộc dạng “quan trọng” của 1 doanh nghiệp (cổ phần là thuật ngữ dùng với công ty cổ phần nên sau đây dùng thay đổi các từ cùng đang nói đến loại hình công ty cổ phần: “công ty” hoặc “doanh nghiệp” hoặc đầy đủ “công ty cổ phần”). Ví dụ như thay đổi điều lệ công ty (điều lệ công ty trong công ty cổ phần là văn bản có hiệu lực cao nhất, định ra hệ thống quyền lực nội bộ của công ty), quyết định thông qua hay không chiến lược kinh doanh, quyết định có hay không bán các tài sản quan trọng của doanh nghiệp (ví dụ sở hữu trí tuệ trọng yếu, công ty con quan trọng…)…

Thông thường cổ đông phải có lượng cổ phần đáng kể (ở Việt Nam tỷ lệ sở hữu cổ phần từ 5% trở lên mới được gọi là cổ đông lớn) mới có khả năng tác động “đáng kể” tới các quyết định quan trọng của một công ty cổ phần. Như vậy cổ phần vàng cho phép Nhà nước nắm một loại cổ phần “đặc biệt” cho phép không cần nắm giữ con số lớn nhưng lại có khả năng tác động/can thiệp đáng kể khi cần.

Nguồn gốc của công cụ này là xuất phát từ châu Âu khi tại đây các loại hình doanh nghiệp có pháp lý rõ ràng đã phát triển sớm và hoàn thiện dần các mô hình, và về sau nhà nước đã bắt đầu sử dụng golden share để kiểm soát các công ty chiến lược khi tư nhân hoá. Trung Quốc bắt đầu áp dụng mô hình golden share này từ khoảng năm 2014 trong lĩnh vực cung cấp nội dung trực tuyến và tăng tốc hơn từ 2020 nhắm vào các Big Tech, trong nỗ lực kiểm soát những gã khổng lồ công nghệ của chính quyền. Khi đó Quỹ đầu tư Internet Trung Quốc (CIIF) đã mua cổ phần vàng tại các công ty công nghệ hàng đầu như Sina Weibo, ByteDance, Alibaba và Tencent. Để tìm hiểu kỹ hơn về cuộc đàn áp các Big Tech những năm 2020 trở đi của Trung Quốc, các bạn nên đọc cuốn sách Trung Quốc quản lý Big Tech và nền kinh tế như thế nào của tác giả Angela Huyue Zhang.

Dù có những lo ngại về phạm vi can thiệp về quản lý của nhà nước thông qua cổ phần vàng nhưng ở chiều ngược lại, khi nhà nước nắm giữ và có người phụ trách tại một doanh nghiệp thì cũng đem lại lợi thế về mặt xin cấp phép, giấy tờ nhất định với chính doanh nghiệp này. Mục đích của chính phủ Indonesia rất rõ ràng là muốn quản lý được thực thể sau hợp nhất, vì thực thể được tạo ra cung cấp dịch vụ có liên quan đến rất nhiều khách hàng đồng thời tạo công ăn việc làm cho lực lượng tài xế khổng lồ của quốc gia. Do đó, việc nắm giữ cổ phần vàng giúp chính phủ có khả năng tác động đến các vấn đề quan trọng như chính sách phúc lợi và thu nhập cho tài xế. Ở chiều ngược lại, 2 gã khổng lồ Grab và GoTo sẽ có thể nhận được sự ủng hộ và phê duyệt thương vụ khi mà về lý thuyết thương vụ là đi ngược lại luật chống độc quyền (nhắc lại rằng thực thể mới được tạo ra sau hợp nhất có thể nắm khoảng 90% thị phần dịch vụ gọi xe và giao đồ ăn tại Indonesia). Nhìn qua thêm số liệu cũng có thể biết được tầm quan trọng của việc quản lý này: chỉ riêng GoTo số lượng đối tác tài xế ô tô, xe ôm và giao hàng đã lên tới con số 3,1 triệu. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, rất nhiều người Indonesia đã lựa chọn gia nhập lực lượng lao động phi chính thức (thời vụ, cộng tác viên…) như tài xế để kiếm thêm thu nhập.

Như vậy, cùng kết nối lại các câu chuyện về golden share, có thể thấy nguồn gốc từ châu Âu và Trung Quốc đã bắt đầu sử dụng từ những năm 2014 trở đi. Tới nay đang tiềm tàng 1 thương vụ áp dụng golden share tại Đông Nam Á. Theo tìm hiểu thông tin của mình thì đây có khả năng là thương vụ áp dụng mô hình golden share đầu tiên tại Đông Nam Á nếu xảy ra thực tế, và nhận thấy có sự tương đồng với câu chuyện golden share với các Big Tech tại Trung Quốc. Lưu ý rằng trước đây và đến nay các quốc gia vẫn có các hoạt động quản lý thông qua các biện pháp như giấy phép, hạn chế sở hữu, luật đầu tư,… hay việc nhà nước đầu tư vào một số doanh nghiệp tư nhân trong các lĩnh vực hạ tầng, an ninh trọng yếu là vẫn có xảy ra nhưng khác biệt nằm ở chỗ loại cổ phần nắm giữ không có sự “đặc biệt” như golden share là không có quyền phủ quyết (veto) dù nắm giữ tỷ lệ sở hữu không đáng kể. Do đó có thể nên dành sự theo dõi với trường hợp thương vụ Grab-GoTo như một trường hợp đầu tiên tiềm năng tại Đông Nam Á và đặt câu hỏi rằng liệu xu hướng quản lý các Big Tech tại khu vực với mô hình golden share có lan rộng tới các nước như Việt Nam hay không?

> Tìm hiểu thêm: Trung Quốc quản lý Big Tech và nền kinh tế như thế nào – Angela Huyue Zhang – Book Hunter Lyceum

Liên hệ tới Việt Nam

Phân tích nhanh qua bối cảnh: tại Việt Nam hiện nay nhà nước cơ bản đã nắm giữ hạ tầng về viễn thông và Internet. Còn các Big Tech trong các ngành dịch vụ công nghệ cao thì cùng điểm qua từng mảng: 

  • Bắt đầu với mảng thương mại điện tử thì hiện mảng này hoàn toàn do các tay chơi nước ngoài chi phối (Shopee, Tiktokshop, Lazada), Tiki thương hiệu Việt hiện gần như không còn thị phần đáng kể. Khả năng áp dụng golden share với các đối tượng sở hữu nước ngoài trên sẽ không cao trừ khi xuất hiện trường hợp tương tự Grab và GoTo với thương vụ sáp nhập mà bắt buộc phải có phê duyệt của cơ quan nhà nước liên quan đến chống độc quyền thị trường.
  • Mảng dịch vụ gọi xe thì hiện nay mới có thêm XanhSM của Vingroup cạnh tranh song mã bên cạnh Grab của nước ngoài. Tuy nhiên Vingroup đa ngành, nên nếu có thể thì golden share sẽ là áp dụng với công ty sở hữu thương hiệu XanhSM thôi. Khả năng xảy ra là chưa cao do tác động xã hội chưa đáng kể, có lẽ sẽ để thị trường cạnh tranh tự điều tiết. 
  • Mảng dịch vụ thanh toán thì có MoMo, VNPAY là lớn (2 cái tên này cũng nằm trong nhóm 4 kỳ lân công nghệ Việt Nam), nhưng nếu làm dịch vụ trung gian thanh toán thuần như 2 công ty này đang làm thì chỉ cần chức năng giám sát của ngân hàng nhà nước là đủ, còn dịch vụ công nghệ tài chính (fintech) như cho vay qua các nền tảng mạng mới là dịch vụ có liên quan và tác động sâu rộng tới xã hội cần được quản lý, thì hiện tại Việt Nam chưa có Big Tech và cũng chưa có công ty nào đáng kể (do P2P Lending chưa được cấp phép rộng, còn F88 lớn trong mảng dịch vụ tài chính nhưng mô hình offline nhiều hơn là online nên không gọi là công nghệ). 
  • Mảng trò chơi trực tuyến thì chắc chắn gọi tên Vinagame (VNG) là kỳ lân đầu tiên trong 4 kỳ lân công nghệ Việt Nam (kỳ lân thứ tư là Sky Mavis mảng blockchain/game không đặt trụ sở và đăng ký kinh doanh ở Việt Nam dù có người Việt là chủ nên không tính vào đây vì chắc chắn không thể áp dụng golden share). Ngoài lĩnh vực trò chơi trực tuyến với lượng người chơi rất lớn thì VNG còn sở hữu OTT số 1 của Việt Nam là Zalo, là đối tượng quản lý tiềm năng, tác động là rất đáng kể. Zalo hiện đang được xây dựng thành một hệ sinh thái không chỉ là một ứng dụng OTT thông thường. Thực tế hiện nay có thể thấy VNG đang hợp tác tương đối sâu và gần gũi với các cơ quan quản lý, có thể thấy thông qua các động thái hợp tác chuyển đổi số với các cơ quan nhà nước, địa phương (có bài báo nhắc đến rằng Zalo trở thành động lực then chốt trong việc thúc đẩy chuyển đổi số hành chính công tại Việt Nam?). Theo thông tin trên Internet, tính đến cuối năm 2024, Zalo đã có 17.273 Zalo OA (tài khoản Zalo chính thức) thuộc các cơ quan nhà nước và khối tiện ích công (y tế, giáo dục…), phục vụ hơn 40 triệu lượt theo dõi tại 63 tỉnh thành, hỗ trợ người dân tra cứu thông tin, thực hiện thủ tục hành chính và tương tác với chính quyền. Hiện Cục Thông tin cơ sở đang hỗ trợ các xã, phường, thị trấn trong toàn quốc thiết lập tài khoản để tạo mạng lưới Zalo OA, phục vụ hoạt động thông tin cơ sở. Đơn vị này đặt mục tiêu hết năm 2025, 100% xã, phường, thị trấn sẽ có trang Zalo OA thông tin cơ sở. Khả năng áp dụng golden share với VNG là có thể xảy ra trong trường hợp cấu trúc sở hữu gặp biến động lớn trong 1 thương vụ thâu tóm tiềm tàng mà nhà nước thấy cần can thiệp (hiện nhóm người Việt sáng lập vẫn nắm biểu quyết 51%, cổ đông lớn nước ngoài có quyền biểu quyết đáng kể là Tencent mới nắm 23,2% quyền biểu quyết).
  • Ngoài các trường hợp trên thì các tập đoàn công nghệ khác cơ bản chưa nắm giữ những tài sản quốc gia quan trọng hoặc tác động sâu rộng đáng để can thiệp. Các công ty thuộc nhóm gia công phần mềm thì chỉ có FPT là cũng có lực lượng lao động tương đối lớn và tại FPT có một phần nắm giữ bởi nhà nước thông qua Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) nhưng tỷ lệ là khoảng 5,71% (cuối năm 2024) và không phải cổ phần vàng (chỉ là cổ phần thông thường). Trường hợp FPT hiện cũng giống VNG là vẫn do người Việt làm chủ và đều có hợp tác chặt chẽ với các cơ quan quản lý rồi.

Tổng kết

Tóm lại, nhìn từ bài học các case study của Trung Quốc về quản lý Big Tech, mô hình quản lý áp dụng golden share có khả năng được áp dụng bởi nhà nước để quản lý hiệu quả các Big Tech có tác động sâu rộng tới xã hội. Trường hợp của Grab và GoTo tại Indonesia là đáng để theo dõi, và như đã phân tích tình hình Việt Nam ở trên thì chúng ta cũng có thể cùng chờ xem Việt Nam có hay không áp dụng một trường hợp golden share đầu tiên trong quản lý Big Tech những năm tới, khi mà thị trường cho dịch vụ công nghệ tiêu dùng ngày càng phát triển tại Việt Nam. Dẫu vậy, cần biết rằng dù có nguồn gốc ở châu Âu nhưng ngày nay tại Liên minh châu Âu, cơ chế golden share từng được Tòa án công lý châu Âu nhiều lần xem xét và trong nhiều vụ bị coi là vi phạm tự do lưu chuyển vốn nếu không có lý do rõ ràng về lợi ích công cộng. EU yêu cầu chính phủ phải chứng minh tính cần thiết và tỷ lệ hợp lý. Nhìn chung, EU hiện thận trọng và hạn chế việc dùng golden share vì nó can thiệp thị trường vốn.

Nguyễn Nghĩa Long