Thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, vào thời Chiến Quốc, Trung Hoa rơi vào thời kỳ xung đột khốc liệt giữa các nước chư hầu, trong đó nước Tần nổi lên với sức mạnh quân sự lấn át các chư hầu. Thế nhưng, Tần vẫn chưa đủ mạnh để đối đầu với bảy nước còn lại. Trong giai đoạn tạm yên giữa các cuộc chiến, khi ấu vương Doanh Chính lên ngôi, “Lã thị Xuân Thu” ra đời dưới sự chủ trì của Lã Bất Vi – tướng quốc nước Tần và là người có ảnh hưởng lớn với vị vua trẻ. Tác phẩm được hoàn thành khoảng năm 239 TCN không chỉ mang tính chất như một “bách khoa toàn thư” về thuật trị quốc lúc bấy giờ, mà còn là nền tảng triết lý giúp định hình tư tưởng Doanh Chính. Mười năm sau khi sách hoàn thành, Tần bắt đầu chinh phạt các nước chư hầu, và đến năm 221 TCN, Doanh Chính thống nhất thiên hạ, tự xưng Tần Thủy Hoàng, hoàng đế đầu tiên của Trung Hoa.
Khác với hầu hết kinh điển của Bách Gia trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, “Lã Thị Xuân Thu” cung cấp một nhãn quan toàn diện về kinh tế – chính trị – tư tưởng, bởi phương pháp Lã Bất Vi lựa chọn khi tổ chức soạn cuốn sách này chính là “kết hợp trăm nhà” và chắt lọc tinh hoa. Ta có thể thấy trong tác phẩm sự xuất hiện của Pháp gia, Mặc gia, Đạo gia, Nông gia, Binh gia, Nho gia… được sắp đặt tùy vào các vấn đề được đặt ra. Khi Lã Bất Vi tổ chức đội ngũ học giả biên soạn “Lã thị Xuân Thu”, ông đã gây chấn động giới trí thức đương thời. Thời bấy giờ, học thuật bị chia cắt thành nhiều trường phái riêng biệt, mỗi phái giữ khư khư bí quyết và trung thành tuyệt đối với quan niệm của mình, truyền thừa tri thức một cách kín đáo và giới hạn. Thế nhưng, Lã Bất Vi đã phá vỡ nguyên tắc ấy. Ông coi tri thức không phải của riêng ai, mà là “của thiên hạ”. Sau khi hoàn thành bộ sách, Lã Bất Vi không chỉ giữ cho riêng mình hay cho ấu chúa Doanh Chính mà còn công khai treo sách ở cổng thành. Ông mạnh dạn tuyên bố: học giả nào tìm ra lỗi sai trong sách sẽ được thưởng lớn. Hành động này chẳng khác nào thách thức cả giới học thuật, nhưng đồng thời cũng mở ra một cách tiếp cận mới, dân chủ và cởi mở hơn với tri thức.
Cao Dụ, học giả viết lời Tựa cho “Lã Thị Xuân Thu” đã lẩy ra những điều ông thủ đắc từ cuốn sách: “Những điều sách này chú trọng là lấy đạo đức làm chuẩn mực, lấy vô vi làm kỷ cương, lấy trung nghĩa làm khuôn phép, lấy công lý làm quy củ…” (1) Không những vậy, cuốn sách còn cho thấy thế giới quan về thiên nhiên, mùa màng, thời khí trong tương quan với con người vốn ăn sâu trong tâm thức dân gian của người dân Hoa Hạ cổ đại. Từ mối tương quan ấy, những tư tưởng và nguyên tắc hành xử chính trị được đưa ra. Phần đầu của Lã thị Xuân Thu được gọi là “Thập Nhị Kỷ”, tượng trưng cho chu kỳ vận hành của 12 tháng trong năm. Cấu trúc của phần này xoay quanh vòng tuần hoàn của thời gian, chia thành bốn mùa rõ rệt. Mỗi mùa đều gắn liền với một thiên tượng – những dấu hiệu từ trời đất – cho thấy sự vận hành của vạn vật theo một chiều hướng nhất định. Dựa vào đó, triều đình cần điều chỉnh lễ pháp, xác định những vấn đề cần luận bàn, và quyết định cách thức giải quyết quốc gia đại sự sao cho phù hợp với thời điểm.Mỗi mùa lại được chia thành một phần riêng biệt, và trong mỗi phần ấy có ba chương nhỏ, đại diện cho ba tháng của mùa đó. Cấu trúc chặt chẽ này không chỉ giúp nhà cai trị hiểu rõ sự hài hòa giữa thiên nhiên và chính trị, mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cai trị thuận theo thiên thời. Triết lý này sau đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng chính trị của Tần Thủy Hoàng và cả các triều đại sau này. Các phần sau bao gồm Bát Lãm và Lục Luận, trong đó Bát Lãm mang yếu tố “Luân Lý Học” còn “Lục Luận” thiên về các pháp “Chính trị luận” (xin được mượn bộ đôi “Luân Lý Học” và “Chính Trị Luận” của Aristotle để biểu thị mối quan hệ giữa Bát Lãm và Lục Luận)..
Một câu hỏi thường được đặt ra với những độc giả hiện đại của “Lã Thị Xuân Thu” đó là liệu các quan điểm mới về khoa học khí tượng có khiến nhận định chính trị trong sách xác đáng nữa hay không, và đâu là điều ta có thể chắt lọc được trong bối cảnh chính trị hiện đại? Trong số bách gia, người hiện đại yêu chuộng Lão – Trang hơn cả, thứ nữa đến Tôn Tử, tiếp đó là đến Khổng… vậy thì “Lã Thị Xuân Thu” nằm ở đâu? Nghiên cứu mới nhất về “Lã thị xuân thu” của học giả James D. Sellmann có thể phần nào giúp trả lời câu hỏi này. Giáo sư Sellmann là nằm trong số những chuyên gia phương Tây hàng đầu về Triết học so sánh và Tôn giáo Châu Á. Ông đã công bố hơn 60 bài viết trên các sách và tạp chí học thuật có bình duyệt, bao gồm Asian Philosophy và Philosophy East and West. Năm 2002, cuốn sách “Thời và Trị trong Lã Thị Xuân Thu” của ông được Nhà xuất bản Đại học Bang New York công bố. Hiện nay, ông giữ chức vụ Hiệu trưởng Trường Đại học Nghệ thuật Tự do và Khoa học Xã hội và là Giáo sư Triết học và Nghiên cứu Micronesia tại Đại học Guam.
Tìm hiểu thêm về sách: Thời và Trị trong Lã thị Xuân Thu – James D. Sellmann – Book Hunter Lyceum
Sự ảnh hưởng của “Lã Thị Xuân Thu”
“Lã Thị Xuân Thu” sớm được đề cập đến trong các văn bản lịch sử của Trung Quốc như pháp trị quốc mà Lã Bất Vi dành để dạy dân chúng. Giáo sư Sellmann không phủ nhận sự ảnh hưởng này, thậm chí còn luận giải sự ảnh hưởng sâu xa hơn đến tư tưởng chính trị của Trung Quốc các thời kỳ sau Tần: Ông viết:
“Lã thị Xuân Thu đóng vai trò quan trọng trong việc cấu trúc hóa bộ máy hành chính và chính trị của nhà Tần (221 – 206 TCN). Dù chỉ tồn tại ngắn ngủi nhưng sự thống nhất của nước Tần lại đặt nền tảng cho nhà Hán (206 TCN – 220 CN) và các triều đại sau này. Cấu trúc chính trị pháp luật của nhà Hán vay mượn rất nhiều từ nhà Tần, khuynh hướng lễ nghi cung đình nhà Hán cũng được vay mượn từ chất liệu tương tự vốn nằm trong các thiên dẫn dắt trong Thập nhị kỷ, tức là các “nguyệt lệnh”. Các thiên ấy cũng ảnh hưởng đến lễ nghi Đạo giáo sau này. Đề xuất duy trì trật tự chính trị thông qua lễ pháp hợp nhất hoàng đế với các phạm trù vũ trụ, xã hội, luật pháp và đạo đức đã lập nên một cương lĩnh cho các nhà cai trị và bộ máy quan lại nhà Hán. Từ Phục Quan, trong ba tập sách viết về lịch sử trí thức thời Hán của mình, đã chỉ ra cách Lã thị Xuân Thu ảnh hưởng đến giới học giả và nền chính trị nhà Hán. Bộ máy chính trị thời Hán dùng khái niệm văn hóa “Trung Hoa” trong hơn 2000 năm, đặt nền móng cấu trúc tổ chức cho các thiết chế triều đại sau này.” (2)
Do sự ảnh hưởng ấy, “Thập nhị kỷ” có thể xem là phần trọng yếu của “Lã thị xuân thu” và cũng làm nên đặc trưng của cuốn sách này. Trong bản dịch “Lã Thị Xuân Thu” do Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, dịch giả Phan Văn Các cũng chỉ lựa chọn dịch “Thập nhị kỷ”. Chỉ đến bản dịch của Ngô Trần Trung Nghĩa, toàn văn của cuốn sách mới được dịch và chú giải trọn vẹn. Mỗi chương của Thập Nhị Kỷ đều có cấu trúc đi từ luận bàn về thời khí thiên nhiên ứng với thời điểm trong năm, trong khí vận như vậy, thiên tử cần có thói quen gì, thực hiện nghi lễ gì, khuyến khích bá quan làm điều gì, hướng dẫn dân sinh sống ra sao, cảnh báo những điều không nên làm, sau đó dẫn dần sang các triết lý sống và cai trị.
Ví dụ, ở tháng đầu xuân, khi bàn về thời khí trong chương “Mạnh Xuân Kỷ”, “Lã thị xuân thu” viết: “Gió đông làm tan băng giá, động vật ngủ đông bắt đầu tỉnh, cá trồi lên băng, rái ra bắt cá, nhạn bay về bắc. Thiên tử ở gian trái thanh dương, ngồi xe gắn chuông hình chim loan, thắng ngựa xanh, trên xe cắm cờ xanh, mặc áo xanh, đeo ngọc xanh, ăn lúa mạch và thịt dê. Sử dụng đồ tế tự chạm trổ thưa và thoáng.” Theo quan điểm của nông gia và đạo gia, hành tương ứng với tháng đầu xuân, tức tiết khí lập xuân chính là “thịnh ở mộc”. Vào ngày lập xuân, thiên tử dẫn quan lại ra đón xuân ở ngoại thành phía đông (tương ứng với hành mộc). Các nghi lễ tế tự hướng tới cầu ngũ cốc bội thu, đích thân đánh xe cày bừa theo lễ tịch điền. Đây chính là các nghi thức mang tính chất “khuyến nông” vì đầu xuân là lúc bắt đầu vạn vật hồi sinh. Thiên tử và quan viên lúc này, cần tận dụng khí vận tốt cho trồng trọt chăn nuôi phải sửa sang bờ ruộng, quan sát địa thế sinh sống của dân, hướng dẫn dân gieo trồng phù hợp với từng loại đất và với thời tiết lúc này. “Lã Thị Xuân Thu” nhấn mạnh vào yếu tố bảo vệ sự sống trong thời điểm này bao gồm một loạt lệnh cấm vào ngày đầu xuân như không chặt cây, không sát sinh, không hiến tế sinh vật cái, không lấy trứng chim, không tụ tập đông người, không xây dựng…và cần lấp kín các thi thể, hài cốt. Đặc biệt, không được dấy binh. Sau khi đưa ra một loạt các hướng dẫn, những nguyên lý các được bàn đến: thiên “Bản Sinh” bàn về nguyên lý coi trọng sự sống chính là thuận theo Đạo, xét cả ở khía cạnh cá nhân và khía cạnh quốc gia. Tiếp đó là thiên “Trọng kỷ” nhấn mạnh vào sự coi trọng bản thân bằng cách thấu hiểu đạo để giữ sự sống của mình. Thiên “Qúy công” giải thích bậc thiên tử trị thiên hạ phải đặt phép công lên triên hết mọi yêu ghét cá nhân để giữ âm dương điều hòa. Và cuối cùng là thiên “Khử tư”, tức gạt bỏ lòng riêng, vượt trên những ham muốn cá nhân để hướng tới hành động vì mục tiêu mang lại sự sống cho thiên hạ. Đến đây là kết thúc một chương, tạo thành một ý khép kín đã được đặt ra trong “Bản sinh”, mà “Bản sinh” lại triển khai rộng hơn ý niệm về khuyến nông và bảo vệ sự sống ở luận giải về thời khí đầu xuân.(3) Các chương khác trong “Thập nhị kỷ” đều có cấu trúc như vậy.
Cũng trong chương “Mạnh Xuân Kỷ”, các tác giả nhắc đến một tư tưởng quan trọng: “Thiên hạ không phải là thiên hạ của một người mà là của mọi người trong thiên hạ.” (4) Câu này nằm trong luận bàn “Qúy công”, tức coi trọng phép công. Không chỉ trong luận bàn “Qúy công, “Lã Thị Xuân Thu” nhiều lần đề cập đến chủ điểm này trong toàn bộ cuốn sách, và nó chịu ảnh hưởng sâu sắc từ quan điểm Lão Trang (như “Khử tư”, “Bản vị”, “Tự ý”…). Phép “công” không đơn giản chỉ là một nguyên tắc chính trị, mà còn là một nguyên tắc tu tâm dưỡng tính của thiên tử. Sellmann bàn: “Thực hành công chính (công) lại là phương tiện để cá nhân tự bộc lộ ở mức tối đa trong bối cảnh thế tục. Nếu bậc đế vương phải giới hạn bối cảnh ấy bằng kiểm soát cưỡng bức thì họ sẽ hạn chế việc tu thân của mình bằng cách không cho phép người khác phát triển và gây ảnh hưởng lên họ. Khi công được thực thi, cảnh huống sẽ trở nên cởi mở và giúp cho việc bộc lộ đầy đủ tính sáng tạo của các cá nhân, nhà vua và dân chúng.” (5)
Sellmann cũng chỉ ra rằng các học giả chính trị hiện đại thường nhầm lẫn câu “Thiên hạ không phải là thiên hạ của một người mà là của mọi người trong thiên hạ” mang sắc màu dân chủ hiếm hoi trong xã hội phong kiến thời sơ cổ. Tuy nhiên, ông giải thích rằng, khi đặt trong bối cảnh toàn bộ cuốn sách và so sánh với địa vị của thiên tử trong cả cuốn sách, thì câu văn này không hàm ý các nguyên lý dân chủ. Ông viết: “Hầu hết các phần trong Lã thị Xuân Thu, nhất là thiên Quý công, đều biện hộ cho nền quân chủ dựa vào lễ nghi với một vị đại quan quán xuyến các vấn đề phức tạp về hành chính chứ không biện hộ cho nền dân chủ. Trong bối cảnh ấy thì nhà vua, giống như các sức mạnh vũ trụ với âm và dương, gió và mưa, phải đối đãi với dân chúng bằng công chính. Thiên hạ không phải là sở hữu riêng của nhà vua mà nhà vua cũng không thể ưu ái cho bất kỳ cá nhân nào.”(6) Điều này có nghĩa là thiên hạ vẫn thuộc sự cai trị của vua quan và để cai trị tốt, vua quan cần xem xét đến toàn thể thiên hạ để ra các quyết sách sao cho phù hợp với thời vận và giúp bảo toàn sự sống của muôn dân, thay vì để yêu ghét cá nhân xen vào. Quan niệm của Lã Bất Vi và có lẽ cả các học giả biên soạn “Lã thị Xuân Thu” thời bấy giờ có phần giống với chủ trương tinh hoa trị mà Aristotle đề xướng trong “Chính trị luận”, tức là người cai trị sáng suốt sẽ biết nắm bắt các quy luật tự nhiên để đưa ra các chính sách tốt nhất cho dân. Những đặc sắc này, cùng với thân thế đặc biệt của Lã Bất Vi và cách tổ chức bản thảo theo lối chiết trung (Eclecticism) xuất sắc của “Lã Thị Xuân Thu” gây nhiều tò mò và tranh luận trong giới nghiên cứu Âu Mỹ.
Bài nói chuyện về vai trò cuốn sách trong xã hội đương đại
Chữ “Thời” như giá trị cốt lõi của “Lã thị Xuân Thu”
Như vừa nói ở trên, các học giả Âu Mỹ có mối quan tâm đặc biệt đến “Lã Thị Xuân Thu”, không phải vì nhận ra trong tác phẩm những điểm tương đồng với tư tưởng triết học và chính trị phương Tây mà nằm ở yếu tố khác biệt rất hiếm xuất hiện trong thế giới quan của họ: chữ “Thời”. Sellmann viết: “Trong nền đạo đức thực dụng và chính sách chính trị thì “thời điểm hành động” đóng vai trò rất quan trọng. Vấn đề này hiếm khi được bàn đến trong triết học phương Tây đương đại. “Hòa hợp vũ trụ” là vấn đề trọng tâm trong đa phần triết học thời Tiên Tần và Lã thị Xuân Thu là một trong những văn bản sớm nhất còn tồn tại ở Trung Quốc phát triển quan điểm vũ trụ luận về trật tự chính trị xã hội khởi phát từ việc vận dụng chữ thời của nhà vua. Góc nhìn triết học về “thời điểm phù hợp” nhấn mạnh và hợp nhất những vấn đề xã hội, chính trị, đạo đức trong Lã thị Xuân Thu. Trật tự duy mỹ thời Tiên Tần trái ngược với hầu hết các quan niệm hậu Kant về lý thuyết đạo đức và chính trị. Thuật cai trị xuất phát từ một nghiên cứu về Lã thị Xuân Thu đặt giả định cho một nền triết học dựa trên hiểu biết có hệ thống về nhiều cảnh huống của đời sống con người. Đây là một cách tiếp cận đối với lý thuyết chính trị “từ trên xuống” (top down) và tạo nên một phong cách quản lý kỳ lạ trong thời Tiên Tần hay của người “Trung Hoa”.” (7)
Yếu tố “Thời”, như ta thấy, đậm đặc trong phần “Thập Nhị Kỷ”. Mỗi kỷ, “thời” có sự đổi khác và thiên tử cần hiểu biết sự thay đổi thời thế này mà vận dụng của nguyên lý cai trị thích hợp trong đưa ra các chính sách. Mang tính chất chiết trung, “Lã thị xuân thu” không thiên về tư tưởng của phái nào, mà coi các tư tưởng ấy như các nhân tố để tùy thời vận dụng. Nói nôm na theo cách của Đặng Tiểu Bình, chính là “Mèo trắng, mèo đen, miễn là bắt được chuột”, tư tưởng cũng vậy, nó đắc dụng tùy thời điểm sử dụng. Chọn lựa theo lối viết này, “Lã Thị Xuân Thu” đã vượt ra ngoài những tranh luận đương thời giữa các phái của Bách gia chư tử. Ở một chiều hướng khác, có lẽ với tham vọng xâu chuỗi sự khác biệt của Bách gia, họ đã đúc rút một loạt các khái niệm xuyên suốt và trọng yếu, mà trong đó “Thời” đóng vai trò trung tâm. Mục tiêu của của nguyên tắc “Hợp Thời” trong cai trị chính là để đạt được trạng thái tốt nhất của “Tính” và “Mệnh”.
“Tính” ở đây có thể hiểu là bản tính của con người và “mệnh” mang nghĩa tương đương với số phận. Chịu ảnh hưởng của Đạo gia, Lã Thị Xuân Thu nhiều lần nhấn mạnh rằng bản tính của vạn vật và con người là tốt đẹp, trong sạch, trường thọ, chỉ vì tạp nhiễm mà bị suy yếu và kém cỏi đi nhưng có thể tu dưỡng để quay trở về và đạt trạng thái cao hơn khi nắm được thiên mệnh. “Tính” và “Mệnh” theo như Sellmann giải thích theo khái niệm hiện đại, ta có thể hiểu như điều kiện của sự sống, mà trong đó sự biến dịch và trao đổi qua lại giữa con người và tự nhiên luôn diễn ra. Sellmann so sánh rằng đây cũng là khác biệt cốt lõi về bản thể luận giữa quan điểm của người Trung Hoa với Parmenides, Plato, Kito giáo vốn coi sự thay đổi là phá trật tự và tiềm ẩn xấu xa. Điều thú vị là, những nghiên cứu mới nhất về khoa học não bộ cũng cho thấy yếu tố biến dịch liên tục trong quá trình tương tác giữa con người và môi trường. Những nghiên cứu này được tóm lược trong cuốn sách “7 bài học rưỡi về não bộ” của Lisa Feldman Barrett:
“Các học giả thường thảo luận về vấn đề này dưới góc độ của “bẩm sinh” và “nuôi dưỡng”—các khía cạnh nào của con người được tích hợp vào gen trước khi ra đời và những khía cạnh nào chúng ta học được từ văn hóa. Nhưng sự phân biệt này chỉ là ảo tưởng. Chúng ta không thể chỉ gán nguyên nhân cho gen hoặc môi trường, bởi vì cả hai giống như những người yêu nhau trong một điệu tango nồng cháy—hòa quyện sâu sắc đến mức không thể tách rời và thật vô ích khi gọi chúng bằng những cái tên riêng biệt như bẩm sinh và nuôi dưỡng.
Gen của một em bé được định hướng và điều chỉnh bởi môi trường xung quanh ở một mức độ đáng kinh ngạc. Ví dụ, các khu vực não liên quan chủ yếu đến thị giác chỉ phát triển bình thường sau khi sinh nếu võng mạc của em bé thường xuyên được tiếp xúc với ánh sáng. Bộ não của trẻ sơ sinh cũng học cách định vị âm thanh trong thế giới xung quanh dựa trên hình dạng cụ thể của tai bé. Điều kì lạ hơn nữa là cơ thể của em bé cần một số gen bổ sung từ thế giới bên ngoài. Những vị khách tí hon này du hành bên trong vi khuẩn và các sinh vật khác, và tác động đến não theo những cách mà các nhà khoa học chỉ mới bắt đầu hiểu được.
Các chỉ dẫn kết nối não bộ của một đứa trẻ không chỉ đến từ môi trường vật lý mà còn từ môi trường xã hội, từ những người chăm sóc và cả những người như bạn và tôi. Khi bạn đung đưa một bé gái sơ sinh trong vòng tay, bạn đưa khuôn mặt của mình tới gần bé ở khoảng cách vừa đủ để dạy cho não bé cách xử lý và nhận diện khuôn mặt. Khi bạn cho bé nhìn các khối hộp và tòa nhà, bạn đang huấn luyện hệ thống thị giác của bé để nhìn thấy các cạnh và góc. Nhiều hành vi xã hội khác mà chúng ta làm với một em bé, như ôm ấp, nói chuyện và giao tiếp bằng ánh mắt vào những khoảnh khắc quan trọng, đều góp phần định hình não bộ của bé theo những hướng cần thiết và không thể thay đổi. Gen đóng vai trò chính yếu trong việc xây dựng hệ thống kết nối của não bộ một em bé, và chúng cũng mở ra cánh cửa để chúng ta kết nối não bộ sơ sinh của bé trong bối cảnh văn hóa của bé.” (8)
Như vậy, giữa những kết quả nghiên cứu não bộ mới nhất và luận bàn về “Tính” của người Trung Hoa cổ đại có chung quan điểm rằng không có gì là cố định mà luôn biến dịch. Sự biến dịch, thay đổi là tất yếu, và bởi thế quá trình quan sát thay đổi giúp các hiền triết cổ đại Trung Hoa đúc rút các quy luật tự nhiên, giống như các hiền triết và học giả phương Tây thực hiện và làm nên khoa học. Tuy nhiên, thế giới phương Đông thay vì bàn luận các chi tiết của những quy luật này thì nhấn mạnh vào việc vận dụng quy luật hơn, trong đó “Hợp Thời”, như đã đề cập chính là nguyên tắc.
Trong xã hội nông nghiệp phương đông, yếu tố “hợp thời” rất quan trọng: tùy mùa mà gieo trồng, tùy mùa mà thu hoạch, tùy mùa mà ăn uống, tùy mùa mà giao phối… Nói chung, cho dù là nông dân hay thiên tử đều luôn ở tâm thế “trông trời, trông đất, trông mây/trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm”. Sự biến thiên của vũ trụ tuy luôn diễn ra nhưng luôn mang tính quy luật, và người xưa tin rằng có thể phỏng đoán tương lai dựa trên quy luật này nhằm đưa ra hành động chính xác hơn. Quan điểm này chúng ta cũng bắt gặp trong Kinh Dịch hay các thuật Chiêm Tinh cổ đại của Trung Hoa. Tính chất quy luật khép kín này có phạm vi co giãn theo trường độ thời gian: 12 canh giờ trong một ngày, 12 tháng trong một năm, 60 năm trong một giáp, sinh lão bệnh tử trong một đời người, bình loạn và hưng phế trong vận mệnh của một triều đại… Trong mỗi bước chuyển đổi đều có các cảnh huống khác nhau mà trong đó thiên tử, tức người ra quyết định quan trọng nhất phải có sự thấu hiểu khí vận tương ứng để đưa ra quyết sách cho bản thân cũng như muôn dân. Sellmann nhận định:
“Lã thị Xuân Thu chứa trong mình cách tiếp cận của Pháp gia cho việc cải tổ quy định nhà nước trong thời điểm thích hợp (biến pháp). Vai trò của tính hợp thời trong cai trị đất nước và vai trò của nó trong công tác nông nghiệp và quân sự là một chủ đề có tính định kỳ. Yếu tố Pháp gia trong Lã thị Xuân Thu tạo nên những mẫu hình nông nghiệp và quân sự biện hộ cho công tác cải tổ quy định trong thời điểm thích hợp. Nhà vua phải biết sử dụng tính hợp thời thời nhằm cải cách chế độ, quy định và pháp luật hợp lý xuôi theo những thay đổi của lịch sử và văn hoá. Kiểu hợp thời này có liên quan chặt chẽ đến mô hình “pháp quyền” vốn được những người theo thuyết Pháp gia ủng hộ bằng hình thức cấp tiến nhất với phương châm bất pháp tiên vương. Hầu hết hệ thống triết học chính trị thời Tiên Tần chấp nhận công dụng của tính hợp thời trong cải cách chính sách, điều này đặc biệt đúng trong quan điểm chiết trung trong thống nhất của Lã thị Xuân Thu khi tả lại cuộc cải cách nhằm thiết lập và duy trì trật tự.” (9)
Điều này có nghĩa là “Lã Thị Xuân Thu” không coi trọng những pháp chế và truyền thống mang tính bất di bất dịch, mà dựa trên sự thay đổi thời thế để thực hiện các cuộc cải tổ hay các quyết định trọng đại vượt ra khỏi khuôn khổ và trật tự thông thường. Tuy nhiên, cũng không quên nhấn mạnh đến sự cải tổ hay các quyết định mang tính đột phá này cũng phải dựa trên tính “hợp thời” tức là có đủ các điều kiện để thực thi, nếu không có đủ điều kiện thì cũng khó có thể đi xa được.
Giữa một thời đại đầy biến động cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, hiểu rõ về chữ “Thời” và chọn cách hành động “hợp Thời” được các nhà nghiên cứu triết học chính trị phương Tây đặc biệt quan tâm. Trong chương cuối “Hợp thời và vận dụng vào các vấn đề đương đại”, James Sellmann đã tái hiện bầu không khí sôi nổi những nghiên cứu của rất nhiều học giả phương Tây đương đại tranh luận về chữ “Thời”. Triết gia Robert S. Brumbaugh của thế kỷ 20 còn khẳng định rằng chữ “Thời” là mối quan tâm hàng đầu ở thời đại ông và ông đã dành rất nhiều nhiên cứu để so sánh triết lý về chữ Thời với triết học Plato & Aristotle. Nhìn chung, các triết gia phương Tây xem xét “Thời” dưới góc nhìn hiện tượng luận và thuyết tương đối. Tuy nhiên, khi xem xét “Lã Thị Xuân Thu”, Sellmann nhận ra có 3 cách hiểu về chữ “Thời” từ chính văn bản này:
“Lã thị Xuân Thu có ít nhất ba quan điểm khác nhau về chữ “thời”. Một vài thiên có quan điểm hướng ngoại và cơ học, xem thời là một quá trình tự nhiên khách quan. Văn bản chứa một cách hiểu phức tạp rằng “thời” tạo ra một lịch sử văn hóa gần 2000 năm, nó bảo vệ cho lý thuyết về sự chuyển biến về lịch sử và văn hoá. Cuối cùng, Lã thị Xuân Thu chứa một quan điểm độc đáo cho rằng “thời” là thứ mà con người, nhất là vua và bộ máy lễ quan, gắn kết thông qua hoạt động cử hành lễ tục. Quan điểm thứ ba giống với thuyết tương đối khi cả hai đều chấp nhận “thời” như một sự tình cờ. Không phải khối lượng hay vận tốc, quan điểm thứ ba về chữ thời trong Lã thị Xuân Thu nhấn mạnh đến gánh nặng về mặt xã hội đè lên địa vị của vua chúa và việc thi hành lễ tục. Từ địa vị ở đây chính là ý nghĩa, gánh nặng xã hội hay tầm quan trọng của vai trò xã hội, chức vụ hay thể chế. Từ thi hành ở đây là sự ban hành một cách phù hợp do một cá nhân hay một nhóm người tiến hành với lễ tục, chính sách, pháp luật, thói quen hay cử chỉ. Việc sắp xếp và tương tác có tính tương đối giữa các thành tố cụ thể vốn hài hòa với nhau cũng giúp gắn kết, sáng tạo và duy trì thời cơ.” (10)
Video giải thích về chữ “Thời” trong Lã Thị Xuân Thu”
Trong diễn tiến của “Thời”, con người đóng vị trí trung tâm, không phải chịu sự áp đặt của số mệnh, mà tạo ra thời cơ từ chính hành động của mình, để rồi lại tự tạo ra những bố cục thời vận mới. Tất cả trở thành một chuỗi tương tác lẫn nhau trong mối quan hệ tổng hòa. Hành động “hợp thời”, dẫu xuất phát từ thiên tử hay người dân, sau rốt hướng tới tạo ra tính hài hòa và nuôi dưỡng sự sống ở chính mình và cho vạn vật. Con người cá nhân ở đây không bị vướng bận bởi luân thường đạo lý kiểu Nho giáo hay những bận tâm về “bình đẳng” mang tính chất toán học hay lý tưởng theo lối phương Tây, mà giữ tâm thế chủ động trong tự do lựa chọn về hành xử, mà trong đó sự lựa chọn đúng đắn luôn mang lại kết quả đúng đắn với biểu hiện cho sự đúng đắn chính là sự sinh trưởng của vạn vật và sự tĩnh tại của bản thân. Hướng nhìn cởi mở này khiến “Lã Thị Xuân Thu” vượt ra ngoài phạm vi một cuốn “sách dạy làm vua” phục vụ Tần Thủy Hoàng mà xứng đáng có một vị trí cao trong triết học chính trị không chỉ của Trung Hoa mà còn ở tầm cỡ thế giới.
Hà Thủy Nguyên
- Trang 13, Lã Thị Xuân Thu, Lã Bất Vi, Ngô Trần Trung Nghĩa dịch, NXB Văn Học, 2023
- Trang 33, Thời và Trị trong Lã Thị Xuân Thu, James Sellmann, Lê Minh Tân dịch, Book Hunter & NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2022
- Mạnh Xuân Kỷ, trang 15-28, Lã Thị Xuân Thu, Lã Bất Vi, Ngô Trần Trung Nghĩa dịch, NXB Văn Học, 2023
- Mạnh Xuân Kỷ, Trang 23, Lã Thị Xuân Thu, Lã Bất Vi, Ngô Trần Trung Nghĩa dịch, NXB Văn Học, 2023
- Trang 68, Thời và Trị trong Lã Thị Xuân Thu, James Sellmann, Lê Minh Tân dịch, Book Hunter & NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2022
- Trang 71, Thời và Trị trong Lã Thị Xuân Thu, James Sellmann, Lê Minh Tân dịch, Book Hunter & NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2022
- Trang 219, Thời và Trị trong Lã Thị Xuân Thu, James Sellmann, Lê Minh Tân dịch, Book Hunter & NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2022
- Trang 61,62,63, 7 bài học rưỡi về não bộ, Lisa Feldman Barrett, Lý Nguyên Như dịch, Book Hunter & NXB Đà Nẵng, 2024
- Trang 193, Thời và Trị trong Lã Thị Xuân Thu, James Sellmann, Lê Minh Tân dịch, Book Hunter & NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2022
- Trang 227, Thời và Trị trong Lã Thị Xuân Thu, James Sellmann, Lê Minh Tân dịch, Book Hunter & NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2022
