Nhân dịp Việt Nam công bố thành lập Trung tâm tài chính quốc tế ngày 21/12/2025, một ngày cuối tuần không rảnh rỗi lắm nhưng có tâm trạng viết một bài mạn đàm về con đường phát triển kinh tế của Việt Nam. Nhìn chung, sau đây là những chia sẻ quan điểm mang tính cá nhân của mình, vấn đề cũng khá là rộng để có thể nói hết các khía cạnh, kiến thức của mình cũng có hạn, chỉ muốn vạch ra vài ý đơn sơ để bạn đọc tham khảo. Nếu có góp ý hay phản biện vui lòng liên hệ tác giả. Còn nếu không thích, không hài lòng thì vui lòng bỏ qua không đọc.
Việt Nam đang ở thời điểm quan trọng để đưa ra các lựa chọn sẽ ảnh hưởng rất lớn tới vận mệnh tương lai của quốc gia trong vài thập kỷ tới. Dựa trên những đánh giá cá nhân, mình cũng xin đưa ra một hướng đi khả dĩ có thể giúp Việt Nam đòn bẩy tốt nhất những gì hiện có để nắm bắt cơ hội khi thời vận đang tới mà đạt được kết quả. Trước tiên nói về hiện trạng.
Không có nền tảng sản xuất công nghiệp, không nắm công nghệ lõi
Trung Quốc sau khi thu hút vốn FDI vào thì phát huy mạnh sự nhanh nhạy, khả năng học hỏi, “sao chép” bất kỳ thứ gì. Cách tiếp cận rất thực tế rằng nếu bạn không có gì trong tay, cách nhanh nhất để học là sao chép người khác. Cái khác biệt là ban đầu họ sao chép hình thức, sau đó là mày mò công nghệ phía sau, cuối cùng tự sản xuất được phiên bản của mình với lõi có thể còn hạn chế (công nghệ thấp hơn, nhiều khuyết điểm) nhưng đó là nền tảng để tiếp tục R&D nghiên cứu cải tiến, cuối cùng có thể tiệm cận các công nghệ tiên tiến nhất.
Hạn chế của Việt Nam khi đi theo con đường này là hiện trạng thực tế hiện nay Việt Nam: không hỗ trợ được các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ (SME) của mình phát triển; vùng xám cho học hỏi còn chưa phát triển và giữ đủ lâu đã bị dẹp; thêm vào đó, Việt Nam nằm cạnh Trung Quốc, công xưởng sản xuất của thế giới, nên tới nay có thể nói việc sản xuất hàng hoá tại Việt Nam gần như không có hiệu quả kinh tế hay cạnh tranh khi so với anh bạn láng giềng (nói chung, vẫn có số ít ngoại lệ). Với một SME thì việc kinh doanh tiềm năng nhất và dễ làm ngay nhất phải chăng là nhập hàng hoá giá rẻ Trung Quốc (chất lượng đủ dùng là được, không thấp so với giá) và buôn bán thương mại tại Việt Nam. Sẽ hiếm có ai muốn đi con đường phát triển sản xuất gian nan nữa.
Có thể thấy rằng Việt Nam đang lựa chọn nuôi dưỡng các nhà vô địch quốc gia (national champions) như tư nhân có Vingroup (ô tô, sắp tới là tàu cao tốc), Thaco (ô tô, sắp tới là tàu cao tốc), FPT (công nghệ phần mềm), Hoà Phát (thép), Đèo Cả (xây dựng hạ tầng), Sun Group (du lịch)… nhà nước có Viettel (viễn thông, công nghệ hạ tầng, quân sự)… để các đơn vị này, cụ thể như Vingroup đầu tư vào các mảng sản xuất như sản xuất ô tô (nhắc lại rằng Việt Nam có thể coi là đã thất bại trong việc xây dựng ngành công nghiệp ô tô trước đó) và sản xuất tàu cao tốc (ngành chưa tồn tại). Với mảng ô tô thì Vingroup chọn cách đi là M&A công ty sản xuất, thiết kế ô tô sẵn có, tiếp quản công nghệ, đội ngũ, sau đó sản xuất ra sản phẩm “có thể dùng được” luôn và tìm cách bán lấy dòng tiền, quay về tái đầu tư R&D tiếp, tức tiền quay về đầu tư ngược lại để hoàn thiện chuỗi giá trị sản xuất. Ví dụ ban đầu có thể nhập nguyên khung từ bên outsource khác, nhưng sau sẽ tự thiết kế và sản xuất khung, tương tự các cấu phần khác của ô tô, cho đến khi tự sản xuất được phần nhiều các cấu phần. Với mảng mới hoàn toàn như tàu cao tốc, Vin sẽ có vai trò nhận thầu các dự án lớn, nhận chuyển giao công nghệ khi liên doanh với nước ngoài và tái đầu tư R&D xây dựng nền móng sản xuất. Đây là con đường khả dĩ có thể đi.
Vấn đề là sau khi các nhà vô địch quốc gia được nuôi lớn, cần phải dùng nguồn lực được hỗ trợ từ nhà nước (bao gồm cả bảo hộ kỹ thuật với đối thủ cạnh tranh nước ngoài, ưu đãi chính sách, chỉ định thầu, hỗ trợ tiếp cận vốn, và được quyền truy cập một số tài sản cấp quốc gia…) để lan toả và tiếp tục nuôi dưỡng hệ sinh thái sản xuất, kéo các SME khác của Việt Nam vào làm cùng. Như vậy mới có thể từ 1 đồng vốn sinh ra nhiều thứ lợi.
Hạn chế của lựa chọn này là các SME phải chờ và phụ thuộc vào các nhà vô địch. Vấn đề chung của các SME là không có cơ chế thuận lợi từ nhà nước để tự phát triển.
“Đi tắt đón đầu”
Nghe thấy rất hay. Nhưng thực tế thì, hoặc việc đi tắt đón đầu không khả thi, hoặc nếu có xảy ra thì thường để lại khoảng trống lớn và những rủi ro lớn tiềm ẩn. Lấy ví dụ để dễ hình dung, bạn luyện thi chứng chỉ ngôn ngữ, tập trung vào các trick, tip để thi và luyện tập với ngân hàng đề thi cũ giúp tăng tỷ lệ gặp các dạng bài tương tự. Điểm số cuối cùng bạn đạt được rất cao, nhưng thực ra với mục tiêu ban đầu của bạn để hiểu và thành thạo ngôn ngữ thì bạn lại không cảm thấy mình đạt được. Đó là một kiểu hình thức mà thiếu nền tảng. Hoặc như một bên nào đó đi triển lãm, lấy đồ của bên khác ra dán đè nhãn lên để khoe hàng, đó là sự rỗng ruột vô ích. Cũng là đi tắt đón đầu nhưng đây là đi vào lòng đất.
Lấy thêm ví dụ về ngành sản xuất máy móc thiết bị công nghiệp nặng. Muốn đạt thành tựu sản xuất công nghiệp nặng như Đức, Nhật để mà sản xuất ra tinh hoa như động cơ đốt trong cho xe cộ hay động cơ máy bay cần một nền tảng về sản xuất cơ khí vài chục thậm chí cả trăm năm. Nó là câu chuyện sở hữu công nghệ lõi về luyện kim (đặc biệt quan trọng!), máy móc thiết bị độ chính xác cao, kinh nghiệm sản xuất các thiết bị cơ khí chính xác lâu đời. Xem lại câu chuyện phát triển ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam có thể minh chứng điều này, khi mà Việt Nam đã từng thử nhưng thất bại trong chiến lược phát triển công nghiệp ô tô trước khi Vinfast xuất hiện. Dù hiện Vinfast đang có những thành quả nhất định và đang tiếp tục phát triển chuỗi giá trị ngành ô tô tại Việt Nam, nhưng thực tế Vinfast sẽ phải mất có lẽ thêm cả chục (hoặc vài chục năm?) để củng cố nền móng về sản xuất. Thành trì được xây dựng trong 1 đêm nhưng muốn tồn tại cả trăm năm đó là điều không thể. Sự tích luỹ và xây dựng nền tảng là gốc của sự phát triển bền vững. Có chăng là chiến lược đi của Vinfast khi làm ô tô khi đó là một cách đi phù hợp với Việt Nam bây giờ (nhưng lưu ý là vẫn đã cần rất rất nhiều tiền và 1 lần đặt cược lớn toàn bộ đế chế để làm của Vin). Trước đây Vinaxuki muốn tự sản xuất ô tô thì thất bại, trong khi Thaco chọn hướng đi khôn ngoan hơn là lắp ráp và thương mại trước thì tồn tại được và thành công. Nhưng hướng đi của Thaco về sau khi thu được tiền rồi thì cần đầu tư ngược lại vào sản xuất, xây lại nền móng thì mới giải được bài toán phát triển ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam. Nhưng rõ ràng bài toán khó là đầu tư vào chuỗi giá trị sản xuất ngành công nghiệp ô tô thì quá rủi ro để giải. Do đó nếu không có Vinfast thì khả năng cũng không có ai muốn giải bài toán hóc búa này. Cái gì hiệu quả kinh tế và dễ thì mình ưu tiên làm thôi.
Nếu không có nền tảng (ví dụ phải có nghiên cứu khoa học công nghệ mới có những công nghệ để dùng, trong các ngành như dược phẩm, y tế, công nghệ luyện kim…) thì không thể đi tắt đón đầu, phương án khả dĩ nhất chỉ là có tiền đi mua công nghệ (nhưng nếu có tiền rồi thì tức đã giàu, cần gì làm giàu nữa, vả lại các công nghệ lõi đều là tài sản quan trọng mà rất khó để được mua bán dễ dàng, thậm chí nhiều công nghệ lõi là tài sản quốc gia, được kiểm soát một cấp độ vô cùng chặt chẽ ví dụ như công nghệ luyện kim hay công nghệ bán dẫn,…). Trung Quốc đã mất nhiều năm vừa yêu cầu chuyển giao công nghệ bắt buộc (khi nhà đầu tư nước ngoài tới đầu tư ở trong nước), vừa cố gắng học hỏi, sao chép, thử nghiệm từ không có gì tới có khả năng sao chép phần nào (vẫn chưa đạt tới trình độ cao trong nhiều loại công nghệ). Đến nỗi Trung Quốc bị gán mác “copy cat” và bị chê bai khắp thế giới. Dù vậy, kết quả của việc này vẫn là một điều đáng kinh ngạc với những thành tựu mà Trung Quốc thu được sau nhiều năm nỗ lực cố gắng. Con đường của Trung Quốc không phải dễ để thực hiện lại.
Như vậy tức không có cách nào cho các nước thoát nghèo vì không hề có con đường tắt? Các nước nghèo sẽ cứ nghèo mãi? Lý do để các con rồng châu Á hoá rồng là gì? Câu trả lời của mình là không ngoài 3 yếu tố thiên – địa – nhân (thiên thời – địa lợi – nhân hoà). Người nào hay quốc gia nào có được đủ 3 yếu tố này đều có thể đi tắt đón đầu, vươn mình hoá rồng. Nghe thì dễ nhưng thực tế chứng minh có mấy quốc gia đã thành công? Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan. Có thể thấy muốn có đủ thiên-địa-nhân không hề đơn giản.
Nói vậy không có nghĩa nên trông chờ có đủ mới hành động, dùng logic để phân tích thì khi nói đi tắt đón đầu tức cần đi 1 cách thông minh để đi nhanh nhưng nền móng không bị quá yếu, rủi ro chấp nhận được (tức là hiểu mình hiểu người và thêm yếu tố quản trị rủi ro). Còn thành hay bại là ở 3 yếu tố thiên-địa-nhân có hội đủ hay không. Phân tích về bối cảnh Việt Nam dưới đây để thấy được 1 con đường khả dĩ.
1.Thiên thời của Việt Nam
1.1.China exit hay China+1: Việt Nam trở thành công xưởng lớn về dệt may và gia công sản phẩm điện tử
Động lực của gia công dệt may hay hàng điện tử cũng đều do tối ưu chi phí, tối đa lợi nhuận của các tập đoàn đa quốc gia. Do đó, ở đây lấy ví dụ mảng gia công hàng điện tử, cũng là giống câu chuyện trong ngành dệt may. Ngành gia công hàng điện tử thiết bị di động có lẽ bắt đầu với các khoản đầu tư lớn chiến lược của Samsung cách đây nhiều năm vào Việt Nam. Thêm vào đó, khoảng chục năm trở lại đây Việt Nam trong nhóm hưởng lợi lớn nhờ xu hưởng China exit hay China+1, là làn sóng các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Trung Quốc tìm kiếm địa điểm tiếp theo ngoài Trung Quốc để phân tán rủi ro chuỗi cung ứng/sản xuất và giảm phụ thuộc vào một mình Trung Quốc. Trước khi Trump bắt đầu chiến tranh thương mại với Trung Quốc lần đầu năm 2018 thì việc có thêm cứ điểm sản xuất ngoài Trung Quốc của các nhà đầu tư quốc tế mới là hành động phân tán rủi ro chuỗi cung ứng/sản xuất cho chính mình, đồng thời cũng do Trung Quốc bảo hộ sản xuất nội địa và bắt đầu bài xích nhà đầu tư ngoại. Nhưng sau khi thương chiến lần thứ nhất nổ ra thì làn sóng China exit càng mạnh mẽ hơn. Nhìn lại bối cảnh, trong nhiều năm nhờ lực hút từ cả thị trường tiêu dùng khổng lồ của Đại lục cùng với nguồn lao động sản xuất địa phương giá rẻ dồi dào, Trung Quốc đã vươn mình trở thành công xưởng gia công của cả thế giới. Việt Nam có nhiều điểm tương tự Trung Quốc trước đây, cộng thêm bối cảnh địa chính trị ổn định nhiều năm, quan điểm ủng hộ hội nhập mạnh vào thị trường thương mại quốc tế, cùng với quan hệ tốt và có sự gần gũi văn hoá Á Đông giúp các nhà đầu tư Nhật, Hàn, Singapore, Đài Loan có thêm lý do cho các khoản đầu tư của mình.
Rõ ràng Việt Nam được hưởng lợi lớn nhờ dòng chảy đầu tư sản xuất chuyển hướng ra ngoài Trung Quốc. Và nhiều người nói Trung Quốc có thể trở thành công xưởng sản xuất của thế giới nhờ Apple đặt nền móng, thì ở Việt Nam tương tự với Samsung. Thời thế giúp thiết bị di động lên ngôi kể từ khi Apple ra mắt iPhone vào năm 2007, khiến cựu vương Nokia phải sụp đổ. May mắn rằng Samsung là nhà sản xuất lớn nhất thế giới về điện thoại thông minh, một thương hiệu toàn cầu và đã xây dựng nền tảng công nghiệp gia công sản xuất quy mô lớn ở Việt Nam (gồm đào tạo công nhân phổ thông, đưa quy trình và tiêu chuẩn sản xuất công nghiệp quy mô lớn vào áp dụng,…). Trong nhiều năm, Samsung cũng đóng góp đáng kể vào lưu lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam (đặc biệt trong giai đoạn đầu) nhờ việc bán smartphone đi khắp thế giới. Đó là những khởi đầu tốt.
1.2.Xu hướng toàn cầu hoá
Việt Nam đã kiên trì theo đuổi việc hội nhập quốc tế trong nhiều năm, từ khi gia nhập WTO thì hoạt động này còn được tăng tốc đáng kể. Về ngoại giao, Việt Nam kiên trì đường lối ngoại giao cây tre trung lập với tất cả các bên. Việt Nam đã tham gia rất nhiều các hiệp định thương mại tự do (FTA) với các quốc gia và khu vực, hiện nay có quan hệ thương mại trên toàn thế giới, như một hình mẫu “bạn của mọi nhà”. Trong bối cảnh thương chiến Mỹ Trung lần 2, Việt Nam thực sự đã nổi lên thành một ví dụ vô cùng đặc biệt trong quan hệ với các quốc gia lớn khi mà thế giới xảy ra rất nhiều xung đột chia rẽ giữa các bên thì Việt Nam, dù còn tiềm tàng nhiều rủi ro với bối cảnh quốc tế bất ổn nhưng, tạm thời vẫn được đánh giá là có vị thế tốt trong hoàn cảnh chung. Thương chiến lần 2 của Mỹ Trung được đánh giá là gây ảnh hưởng tiêu cực tới tiến trình toàn cầu hoá, tự do thương mại của thế giới khi Trump dẫn đầu đem xu hướng bảo hộ quốc gia trở lại. Dù vậy, theo quan điểm cá nhân mình thì xu hướng toàn cầu hoá và tự do thương mại quốc tế sẽ không thể đảo ngược, nó chỉ bị làm chậm, phân hoá tạm thời trong thời đại của Trump. Do đó hướng đi của Việt Nam tới nay mình đánh giá là phù hợp xu hướng tương lai. Phù hợp thời thế chính là nắm được thiên thời.
2.Địa lợi
Vị trí địa lý đem lại nhiều lợi thế cho Việt Nam, nói có thể sẽ dài, chỉ điểm ra một số cái theo mình là quan trọng trong thiên thời hiện nay:
-Việt Nam có đường bờ biển tương đối dài, có khả năng phát triển hệ thống cảng biển đa dạng bao gồm các cảng nước sâu cho phép tiếp nhận các tàu kích cỡ lớn nhất. Cụ thể Việt Nam có hơn 300 cảng biển trong đó có hơn 30 cụm cảng quan trọng, trong đó cụm cảng Thị Vải Cái Mép đứng top 8 thế giới về sản lượng hàng hoá thông qua (theo World Bank và Hãng tin Tài chính S&P Global Market Intelligence, số liệu năm 2024).
-Biển đông của Việt Nam chiếm lưu lượng vận tải đường biển quốc tế rất lớn đi qua (khoảng 1/3 lưu lượng thế giới, nguồn: Internet) tạo cơ hội tận dụng khai thác, kinh doanh lưu lượng này.
-Việt Nam là láng giềng của Trung Quốc, sự gần gũi văn hoá và khoảng cách địa lý có thể coi có đem lại một số lợi thế nhất định (bên cạnh những hạn chế) tuỳ vào đánh giá khía cạnh nào.
-ASEAN cũng đóng vai trò quan trọng: Vị trí sân bay Long Thành được coi là trung tâm của vùng Đông Nam Á khi khoảng cách từ Long Thành đi tới các nơi 4 phía của vùng Đông Nam Á là gần xấp xỉ nhau. Do đó không phải tự nhiên sân bay lớn nhất và đại diện cho tương lai Việt Nam được đặt địa điểm tại nơi này. Đó mới là về khoảng cách địa lý, còn về vai trò, hiện Việt Nam có thể khai thác vị thế của mình như 1 cửa ngõ, điểm kết nối, điểm đặt chân đầu tiên để vào ASEAN của tất cả các bên cả kinh doanh, đầu tư và ngoại giao. Góc độ đầu tư, Việt Nam rất đáng cân nhắc nếu bạn muốn bắt đầu mở rộng việc kinh doanh toàn cầu của mình tại ASEAN lần đầu tiên, do hạ tầng khu công nghiệp đầy đủ, điện không thiếu, chính sách ưu đãi, thị trường tiêu thụ tự có không hề nhỏ (hơn 100 triệu người) và rất nhiều các đồng hương của họ (từ các quốc gia khác nhau) đã có thể có hoạt động kinh doanh tại đây. Việt Nam có tiếng nói trong ASEAN, có thể là cầu nối tốt với các quốc gia trong khu vực. ASEAN đang nổi lên như 1 điểm đến đầu tư toàn cầu hiện nay, trong khối có nhiều quốc gia cạnh tranh cao, đáng cân nhắc về câu chuyện đầu tư mới gần đây như Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Việt Nam. Vì vậy các quốc gia ASEAN được hưởng lợi nhờ cộng hưởng vai trò, đem đến một số lợi ích ngoại giao và vị thế trên trường quốc tế.
3.Nhân hoà
Yếu tố con người với vai trò quan trọng thuộc về nhóm lãnh đạo, những người cầm cân nảy mực, đưa ra các quyết sách và nhóm thực thi, là những người triển khai trong thực tế bao gồm các doanh nhân, người làm kinh tế, người lao động. Điều này là cái còn phải chờ xem. Mình sẽ nói tới ở phần Các thách thức cuối bài viết.
Thoát bẫy nghèo
Dựa trên phân tích 3 yếu tố trên thì mô hình Việt Nam có thể tập trung vào theo đuổi sẽ ra sao. Dưới đây, mình sẽ trình bày một số gợi ý theo quan điểm của mình.
Việt Nam đã thoát nghèo, và giai đoạn thoát nghèo là giai đoạn tay trắng khởi nghiệp, phải bán tài nguyên thô cùng bán sức lao động giá rẻ (các ngành thâm dụng lao động như gia công dệt may, khai thác tài nguyên thủ công, lắp ráp đóng gói…). Đến nay nếu muốn từ thoát nghèo thành công lên có chút tiền bạc tích luỹ (tiến tới trung lưu) thì cần nhất là làm những việc có giá trị gia tăng nhiều hơn là các việc bán tài nguyên thô và bán sức giá rẻ.
Liên hệ tới câu chuyện thoát bẫy nghèo của Trung Quốc, các bạn có thể tìm đọc thêm tham khảo cuốn sách: “Trung Quốc thoát khỏi bẫy nghèo như thế nào” của tác giả Yuen Yuen Ang.
Tìm hiểu thêm về nghiên cứu “Trung Quốc thoát khỏi bẫy nghèo như thế nào” của Yuen Yuen Ang, bản dịch của Phương Mạnh, Minh Tân, Nghĩa Long

1.Hướng đến trở thành trung tâm về trung chuyển:
Trung chuyển gì? Trung chuyển hàng hoá. Trung chuyển tiền.
Mô hình trung chuyển là cho dòng tiền hoặc dòng hàng hoá chạy qua lãnh thổ và thu phí trung chuyển trên đó, hoặc ngoài phí trung chuyển là cái trực tiếp và tối thiểu nhất thu được thì mình có thể bán thêm dịch vụ gia tăng (upsales) để thu thêm lợi nhuận. Ví dụ thu tiền dịch vụ logistic (kho bãi bốc dỡ,…) hoặc thu tiền nền tảng (ví dụ nền tảng giao dịch tài chính với dòng tiền…). Công việc làm ăn này rõ ràng khai thác tối đa lợi thế địa lợi là vị trí địa lý thuận lợi (trung tâm Đông Nam Á, có traffic vận tải biển chạy qua tự nhiên lớn, có đường bờ biển xây cảng nước sâu được) và thiên thời là dòng chảy quốc tế chuyển hướng do chiến tranh thương mại.
Mô hình trung chuyển này ví dụ rõ nhất là giống Singapore tuy nhiên khác một chút ở cái là Singapore là mô hình trung chuyển thuần tuý, bản thân Singapore không có phát triển sản xuất hàng hoá tại nội địa được để mà xuất đi. Nhưng Trung Quốc và Việt Nam vẫn có thể phát triển sản xuất gia công trong nội địa nhờ phát triển quỹ đất khu công nghiệp rộng, đầu tư mạnh vào hạ tầng cả đường biển (cảng biển), đường bộ (đường sắt) và đường hàng không (sân bay). Bờ biển dài gần các luồng giao thông đường biển đông đúc, đầu tư mạnh vào cảng biển và năng lượng (phục vụ khu công nghiệp sản xuất kinh doanh tại cảng luôn). Hàng hoá, sản phẩm sản xuất ra trong nội địa vừa có thể tiêu thụ với thị trường tiêu dùng trong nước vừa có thể xuất khẩu đi nước ngoài. Hai nước cũng có nguồn lao động địa phương dồi dào. Vì thế bài toán của các nhà đầu tư là các công ty sản xuất hàng hoá sản phẩm tại Việt Nam hay Trung Quốc sẽ tối ưu hơn nhiều do khi họ đầu tư nhà xưởng sản xuất vừa có hạ tầng khu công nghiệp, vừa có đủ lao động lành nghề, vừa có cảng biển xuất đi (hoặc đường hàng không hoặc đường sắt trên bộ), vừa có thị trường tiêu thụ tại chỗ, giúp chi phí ở các khâu đều được tối ưu cho đến tay người tiêu dùng. Các nước như Việt Nam cũng ưu đãi tiền thuê đất hoặc thuế thu nhập doanh nghiệp mạnh cho các nhà đầu tư FDI. Nhờ đó các doanh nghiệp FDI tối ưu chi phí và gia tăng lợi nhuận tối đa.
2. Hướng ưu tiên các ngành dịch vụ không khói như du lịch, các dịch vụ giá trị gia tăng trong nền kinh tế số và dịch vụ tài chính.
Tại sao là các ngành này mà không phải các ngành khác:
-Các ngành này không cần nền tảng sản xuất hay công nghệ lõi mất nhiều năm R&D mà phụ thuộc nhiều vào những tài nguyên Việt Nam có sẵn như với du lịch là cảnh quan thiên nhiên, sức hút về chiều sâu, sự đa dạng văn hoá, con người thân thiện; với các dịch vụ giá trị gia tăng trong nền kinh tế số (ví dụ dịch vụ phần mềm không thâm dụng lao động) và dịch vụ tài chính thì quan trọng nhất là con người thì có thể đào tạo nâng cao thông qua các chương trình đào tạo tiên tiến, đào tạo ở nước ngoài, đi học hỏi,… Về con người Việt Nam vẫn được đánh giá là thông minh, học hành tốt. Các ngành dịch vụ này tạo ra giá trị gia tăng nhiều hơn.
-Các ngành này hướng đến phát triển chiều sâu, bền vững và phù hợp với xu hướng xanh (công nghiệp không khói). Việc leo lên trong chuỗi giá trị từ gia công lên tư vấn, thiết kế, bán trải nghiệm, phong cách sống là không đơn giản nhưng nếu làm được thì tạo sự thay đổi lớn về chất và cũng là gia tăng vị thế cạnh tranh về lâu dài.
Phân tích chi tiết hơn từng ngành dịch vụ ở trên:
2.1.Ngành du lịch:
Một điều đang nổi lên mà mình quan sát được đó là không những dòng chảy hàng hoá, đi theo đó là dòng chảy tài chính, đang chạy qua và sôi động hơn ở Việt Nam thì tương tự dòng chảy nhân khí (con người) cũng đang vượng lên. Cụ thể trong năm 2025 Việt Nam đã vượt mốc 20 triệu du khách nước ngoài tới thăm, cao nhất trong lịch sử 65 năm trở lại đây. Con người tới du lịch, 1 lần, rồi nhiều lần. Con người có thể tới để làm việc kết hợp du lịch. Con người cũng tới để sinh sống lâu dài nếu phù hợp. Dòng chảy đang rất sôi động và có xu hướng tiếp tục tăng. Trong ngành dịch vụ du lịch Việt Nam cũng có nhà vô địch quốc gia đó là Sungroup.
2.2.Các ngành dịch vụ giá trị gia tăng cao trong nền kinh tế số
Mục tiêu quốc gia của Việt Nam là năm 2030 nền kinh tế số có tỷ trọng chiếm 30% trên GDP quốc gia. Việt Nam đang muốn đầu tư mạnh vào công nghệ và phát triển nền kinh tế số. Hiện nay đang xây dựng hạ tầng công nghệ viễn thông quốc gia một cách nghiêm túc, đẩy mạnh chuyển đổi số tất cả các lĩnh vực. Nói đến nền kinh tế số và công nghệ thì tương đối rộng và bao phủ nhiều lĩnh vực, tuy nhiên bài học từ Trung Quốc ta có thể nhìn kỹ hơn vào ngành công nghệ tiêu dùng nước này, ngành đã tạo ra những gã khổng lồ công nghệ Trung Quốc với phạm vi ảnh hưởng toàn cầu ngày nay như Alibaba, Tencent, Bytedance… Về ngành công nghệ tiêu dùng thì Việt Nam có điểm tương tự Trung Quốc đó là có thị trường tiêu dùng nội địa lớn với hơn 100 triệu dân, mức độ thâm nhập công nghệ rất cao, thói quen sử dụng công nghệ ngày càng thường xuyên hơn trong đời sống hàng ngày từ mua sắm, tiêu dùng, gọi xe, làm thủ tục công trực tuyến, làm việc online… Ngành công nghệ tiêu dùng dựa trên nền tảng sức mua của lượng dân số lớn trong giai đoạn kinh tế quốc gia tăng trưởng nhanh làm bệ đỡ rất mạnh cho sự phát triển thần tốc của ngành này. Với Trung Quốc chỉ trong vòng chưa đầy 2 thập kỷ các gã khổng lồ công nghệ của nước này đã tạo ra ảnh hưởng và vị thế toàn cầu, có khả năng cạnh tranh với Mỹ. Tuy nhiên, vấn đề giá trị gia tăng tạo ra của ngành công nghệ tiêu dùng có bền vững hay không phụ thuộc vào việc các gã khổng lồ công nghệ tiêu dùng này có quay lại dùng tiền kiếm được từ tiêu dùng của người dân đầu tư vào các mảng công nghệ lõi để tăng sức cạnh tranh quốc gia về công nghệ hay không. Gần đây nhất, Trung Quốc kêu gọi những nhà vô địch của mình trong các lĩnh vực công nghệ bao gồm công nghệ tiêu dùng đầu tư mạnh vào giải quyết các bài toán tương lai, phát triển tự lực công nghệ lõi để tự nắm bắt vận mệnh của mình. Việt Nam cũng đang có lời kêu gọi tương tự.
Đọc thêm về cách Trung Quốc quản lý các Big Tech trong ngành công nghệ tiêu dùng và nền kinh tế, bạn có thể tìm đọc cuốn sách “Trung Quốc quản lý Big Tech và nền kinh tế như thế nào” của tác giả Angela Huyue Zhang.
Tìm hiểu thêm về nghiên cứ “Trung Quốc quản lý Big Tech và nền kinh tế như thế nào” của Angela Huyue Zhang, bản dịch của Phương Mạnh, Thiên Trang, Nghĩa Long, Linh Nga, hiệu đính bởi Lê Duy Nam.

Quay về câu chuyện nên phát triển ngành của Việt Nam, mình vẫn đánh giá cao việc bán chất xám chất lượng cao là tạo sức cạnh tranh bền vững (khó bắt chước hơn, đây là rào cản tự nhiên nếu đã thành công leo lên được) đồng thời còn tạo ra lực lượng nhân tài có khả năng nắm bắt (nếu học nước ngoài) và nghiên cứu các công nghệ lõi cho tương lai. Do đó trong quá trình phát triển nền kinh tế số của mình, Việt Nam nên trọng tâm lưu ý hướng tới các ngành dịch vụ có liên quan nền kinh tế số mà trong đó tạo ra giá trị gia tăng cao ví dụ như bán chất xám chất lượng cao như với ngành dịch vụ phần mềm (lưu ý kỹ là dịch vụ phần mềm nhưng không thâm dụng lao động). Hiện, Việt Nam có ngành gia công phần mềm tương đối phát triển với FPT là đầu tàu và cũng là người đặt nền móng cho ngành gia công phần mềm tại Việt Nam. FPT là công ty gia công phần mềm (chỉ tính doanh thu gia công phần mềm) lớn nhất tại Đông Nam Á. Nhưng vấn đề với ngành này là thực chất ta đang bán giờ công lao động giá rẻ, và nghề gia công nói chung cũng như các nghề gia công may mặc, gia công sản phẩm khác thì đều thâm dụng (sử dụng nhiều) lao động. Tức bạn dùng số lượng lao động nhiều và giá rẻ để cạnh tranh với đối thủ. Thay vì tuyển một ông Mỹ giá 100 thì tuyển 5 ông Việt Nam giá tổng cộng 80 cho cùng 1 đầu ra công việc thì cũng là hiệu quả chi phí rồi. Tương lai phát triển tiếp theo của nghề này là Việt Nam cần tiến lên những bước cao hơn trong chuỗi giá trị sản xuất phần mềm, từ gia công phần mềm sang bán sản phẩm/dịch vụ phần mềm, ví dụ về dịch vụ phần mềm như tư vấn giải pháp chuyển đổi số, giải pháp cloud hoá, giải pháp ứng dụng AI, tư vấn thiết kế hệ thống… Nhìn chung, từ nhận việc viết code thuê, sang làm được các công đoạn cần ít người nhưng phải tinh để bán được chất xám giá cao. Công nghệ thay đổi nhanh, bối cảnh ngành đã thay đổi rất nhanh và nhiều lần trong chỉ vài thập kỷ qua, thời đại máy tính cá nhân của IBM những năm 80-90, rồi tới thời đại trước 2000 với sự bùng nổ Internet, rồi thời đại thiết bị di động sau khi Apple ra mắt iPhone năm 2007, tới nay là thời đại của AI, blockchain. Do đó nhân tài trong ngành này không phải giống trong các ngành sản xuất truyền thống là cần nền tảng tích luỹ nhiều năm và đầu tư mạnh vào tài sản cố định như máy móc sản xuất mà quan trọng khả năng học hỏi, thích nghi và sáng tạo liên tục. Điều này tạo ra cơ hội cho những người nhanh nhẹn phù hợp thời thế. Sự xoay chuyển thời thế tạo ra những cơ hội đặc thù.
2.3.Ngành dịch vụ tài chính
Dịch vụ tài chính chắc chắn sẽ phát triển nếu mô hình trung tâm trung chuyển hình thành. Giống như các ngành dịch vụ bán chất xám chất lượng cao thì để cung cấp dịch vụ tài chính cạnh tranh được với nước ngoài là đều không phải dễ. Nhưng vì có nền tảng là nếu xây dựng mô hình trung chuyển hàng hoá đi qua cùng với việc Việt Nam vẫn đang thu hút mạnh đầu tư FDI thì ngành dịch vụ tài chính có khả năng để phát triển song hành vì dòng chảy tiền đi qua là có phát sinh cơ hội cung cấp dịch vụ này rồi, càng nhiều giao dịch thì càng tốt. Lấy bệ đỡ trước tiên phục vụ nhu cầu trong nước để phát triển thị trường tài chính và ngành dịch vụ tài chính. Học hỏi và tiếp thu, mà vẫn tạo được giá trị gia tăng cho nền kinh tế nội địa. Sau đó tiến tới cung cấp được cho nước ngoài (go global) mang ngoại tệ về.
3. Ngoài ra, Việt Nam vẫn cần:
-Ngành sản xuất bao gồm sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất máy móc thiết bị cho công nghiệp nặng. Hai ngành sản xuất này vẫn cần phát triển đến một mức độ nhất định, để phục vụ nhu cầu thiết yếu, cũng như tự chủ, tránh phụ thuộc nhập khẩu nước ngoài. Đây là mục đích trọng tâm. Vấn đề của ngành sản xuất bao gồm vấn đề về công nghệ lõi và cả vấn đề phát triển hệ sinh thái sản xuất.
-Ngành nông nghiệp: Gốc của Việt Nam vẫn là nông nghiệp. Trong nông nghiệp Việt Nam cũng có thế mạnh và cũng đã có nền tảng nhất định. Ngành này cần tăng tiêu chuẩn chung trong ngành định hướng xuất khẩu, ứng dụng công nghệ cao vào để gia tăng năng suất và cũng tận dụng nền kinh tế số làm lực hỗ trợ phát triển một ngành nông nghiệp hiện đại, bền vững.
Còn nhiều thách thức:
Mô hình trung tâm trung chuyển cần nhấn mạnh sự tự do luân chuyển, yếu tố kiểm soát và can thiệp của Nhà nước cần phải xem xét kỹ. Nếu hướng đến mô hình trung chuyển mà không “tự do” thì mô hình sẽ nửa nạc nửa mỡ và thất bại. Dù nhà nước vẫn phải giải bài toán về các vấn đề quản lý nhà nước với khu vực tự do như chống rửa tiền xuyên biên giới, chống dòng ngoại tệ ròng chảy ra quá nhiều… nhưng một điểm cân bằng nhạy cảm cần được thiết lập. Thực tế đã có sẵn những bài học mô hình từ Singapore và Hongkong, vấn đề của Việt Nam là yếu tố nhân hoà, con người (các lãnh đạo) sẽ giải quyết bài toán này như thế nào.
Ngành du lịch bài toán lớn nhất là cần hướng đến mô hình phát triển bền vững, cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo tồn.
Ngành dịch vụ giá trị gia tăng cao trong nền kinh tế số cần có sự quản lý và định hướng đúng từ phía trên, có nhiều bài học từ Trung Quốc trong phát triển nền kinh tế số mà Việt Nam có thể tham khảo. Riêng ngành dịch vụ phần mềm không thâm dụng lao động thì FPT nói riêng và ngành gia công phần mềm Việt Nam nói chung có chuyển dịch được hiệu quả từ mô hình gia công sang bán dịch vụ giá trị gia tăng cao như tư vấn, thiết kế, bán sản phẩm/dịch vụ hoàn thiện thành công hay không còn cần thời gian để thấy được. Dù hiện nay Việt Nam đang kêu gọi đầu tư mạnh vào công nghệ nhưng cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp nên tập trung vào thực chất nếu thực sự muốn nắm bắt cơ hội.
Một vấn đề quan trọng trong mảng sản xuất hay khởi nghiệp kinh doanh là cơ hội không được phân bổ đồng đều khiến cấu trúc phát triển bị méo mó. Nếu Việt Nam lựa chọn nuôi các nhà vô địch và không hỗ trợ thực chất cho các SME sẽ tạo ra sự phát triển không đồng đều ở các ngành. Và một khi nhà vô địch thất bại hoặc không tạo được giá trị lan toả với các SME (như chuyển giao công nghệ cho SME nội địa, hỗ trợ cùng đồng hành phát triển, đào tạo nhân sự…) thì các nhà vô địch trở thành những gã khổng lồ hợm hĩnh và tham lam. Nếu tham với người ngoài (ra quốc tế) thì nên có sự tham đó làm động lực, còn tham với người nhà thì thất bại. Ví dụ trong mảng công nghệ, nhà nước nói muốn thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp thì nên tập trung thúc đẩy 2 chiều, vừa hỗ trợ các nhà vô địch “go global”, vừa thúc đẩy từ dưới lên cho các startup hay các SME thông qua các hoạt động thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp kinh doanh. Cần tạo cơ hội đồng đều cho các startup công nghệ non trẻ, hỗ trợ vốn, hỗ trợ kiến thức, cho phép thử sai (cơ chế sandbox, mà hiện nay sandbox nhưng vẫn phải xin cho!), giảm lợi ích nhóm trong đấu thầu quốc gia, tạo cơ hội bình đẳng giữa các nhà vô địch và các startup trong những ngành cần đổi mới, sáng tạo như công nghệ (nhà vô địch chưa chắc đã là những người làm tốt trong những việc cần đổi mới, sáng tạo hơn các startup, lưu ý điều này). Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo một môi trường thuận lợi giúp tất cả các bên cùng cộng hưởng giá trị và cùng tiến về phía trước.
Tương tự với đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, môi trường đầu tư cần sự minh bạch và công bằng với các bên. Rõ ràng vấn đề thể chế ảnh hưởng mạnh mẽ tới niềm tin các nhà đầu tư. Nuôi các nhà vô địch, không có nghĩa bỏ rơi các SME, cũng không phải tìm cách đá các FDI ra khỏi quốc gia. Bài học về sự phát triển không đồng đều đã có ở các nước đi trước.
Kết luận
Tổng kết lại, dù yếu tố nhân hoà được nói đến cuối cùng nhưng lại không phải xếp cuối cùng về quan trọng. Tầm quan trọng của nó ngang với 2 yếu tố trước đó. Đây cũng là ẩn số lớn nhất với Việt Nam hiện nay. Có thành công hay không trong công cuộc trở thành một quốc gia phát triển trong tương lai theo mình phụ thuộc nhiều nhất vào yếu tố này khi đã có thiên thời và địa lợi.
Cùng chờ xem.
Nguyễn Long

