Home Đọc Thương mại điện tử và vai trò của các bên liên quan – Bài học từ Trung Quốc và gợi ý cho Việt Nam

Thương mại điện tử và vai trò của các bên liên quan – Bài học từ Trung Quốc và gợi ý cho Việt Nam

le-nam

Lê Nam

23/08/2025

Chưa bao giờ thương mại điện tử (TMĐT) lại trở thành tâm điểm như hiện tại. Thương mại điện tử Việt Nam tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng cao, đạt mức 18-25% mỗi năm. Năm 2024, quy mô thị trường đã vượt mốc 25 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2023, chiếm khoảng 9% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước. TMĐT hiện chiếm 2/3 giá trị nền kinh tế số Việt Nam – trở thành động lực chính thúc đẩy chuyển đổi số trong doanh nghiệp. Tốc độ tăng trưởng hai con số được duy trì ổn định, giúp Việt Nam nằm trong Top 10 quốc gia có TMĐT phát triển nhanh nhất thế giới. Tuy nhiên, các vấn đề liên quan tới rò rỉ thông tin khách hàng, sự an toàn của shipper, tràn ngập hàng giả, hàng nhái… năm 2025 trở thành một năm bản lề của TMĐT Việt Nam để chấn chỉnh lại TMĐT.

Trước khi đâu sâu vào thực trạng, chúng ta cùng điểm qua một loạt các quy định pháp luật về TMĐT qua các văn bản pháp lý như sau:

“Căn cứ khoản 1 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 3 Điều 1 Nghị định 85/2021/NĐ-CP), hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác.

Nói một cách dễ hiểu, thương mại điện tử là hình thức kinh doanh, mua bán sản phẩm hoặc dịch vụ qua các nền tảng điện tử, đặc biệt là qua mạng Internet. Bao gồm các hoạt động như mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ trực tuyến, thanh toán điện tử, và trao đổi dữ liệu trong quá trình kinh doanh.

Ví dụ thương mại điện tử:

Các sàn giao dịch thương mại điện tử: Lazada, Shopee, Tiki tại Việt Nam, hoặc Amazon, eBay trên phạm vi quốc tế.

Các cửa hàng trực tuyến của các thương hiệu: Các website của hãng như Zara, Nike, Samsung, nơi khách hàng có thể chọn và mua sắm trực tiếp.

Dịch vụ đặt hàng thực phẩm qua ứng dụng: Grab Food, Shopee Food, Xanh SM, Be.

Các dịch vụ và sản phẩm kỹ thuật số: Mua sách điện tử, các khóa học trực tuyến trên Udemy hoặc Coursera.

Thanh toán và chuyển tiền trực tuyến: Ví dụ như sử dụng ví điện tử Momo, ZaloPay.

Một số khái niệm khác về thương mại điện tử:

Website thương mại điện tử: Là trang thông tin điện tử được thiết lập để phục vụ một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ, từ trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ đến giao kết hợp đồng, cung ứng dịch vụ, thanh toán và dịch vụ sau bán hàng.

Ví dụ: Website của Thế Giới Di Động.

Sàn giao dịch thương mại điện tử: Là website thương mại điện tử cho phép các thương nhân, tổ chức, cá nhân không phải chủ sở hữu website có thể tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình mua bán hàng hóa, dịch vụ trên đó.

Ví dụ: Tiki, Sendo, Tik Tok Shop, Shopee, Lazada,..

Từ cuối năm 2024, khi các cơ quan quản lý bắt đầu siết chặt cơ chế, toàn bộ hệ sinh thái – từ sàn thương mại điện tử, nhà bán hàng, khách hàng cho tới các ông lớn công nghệ đứng sau – đều buộc phải thay đổi mạnh để thích nghi với luật chơi mới. Đây là một trong các chính sách nằm trong một chiến lược bao trùm được công bố qua Quyết định số 645/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử quốc gia giai đoạn 2021 – 2025 bao gồm rất nhiều các điều khoản chi tiết và dường như rất hợp lý. Tôi xin được trích một vài điều khoản đáng chú ý như sau:

– Thương mại điện tử là một trong các lĩnh vực tiên phong của nền kinh tế số, nơi các công nghệ tiên tiến của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) được ứng dụng rộng rãi để tăng hiệu quả của chu trình kinh doanh, góp phần hiện đại hóa hệ thống phân phối, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu.

– Doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt triển khai ứng dụng thương mại điện tử trong khi nhà nước đóng vai trò quản lý, thiết lập hạ tầng và tạo môi trường cho thương mại điện tử phát triển.

– Xây dựng thị trường thương mại điện tử lành mạnh, có tính cạnh tranh và phát triển bền vững;

– Doanh số (vào năm 2025) thương mại điện tử B2C (tính cho cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trực tuyến) đạt 35 tỷ USD

– Xây dựng hạ tầng chứng thực hợp đồng điện tử và các chứng từ điện tử phục vụ giao dịch thương mại khác trên nền tảng xác thực thông tin ứng dụng công nghệ số bao gồm chữ ký số công cộng, chữ ký số cá nhân trên di động, lưu trữ blockchain…;

– Xây dựng các cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả ứng dụng công nghệ số, khuyến khích việc hình thành các hệ thống trọng tài/giải quyết tranh chấp độc lập, tham gia các cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến của khu vực và quốc tế;

Phải nói rằng khi đọc kỹ Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15/5/2020 tôi thấy rằng cơ quan quản lý đã có những nhận định phù hợp và đưa ra các phương hướng hợp lý và kịp thời để chấn chỉnh TMĐT tại Việt Nam, đặc biệt là ngay sau COVID-19, thói quen mua hàng của người tiêu dùng Việt Nam đã nghiêng hẳn sang TMĐT. Tuy nhiên có lẽ về thực tế thì mọi diễn tiến vẫn còn quá chậm và tới năm 2024 khi mà chỉ còn một năm để đánh giá độ hiệu quả của Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15/5/2020 thì cơ quan quản lý mới tăng tốc. Thời kỳ “dễ thở” cho người bán và người mua đã qua. Các sàn thương mại điện tử không còn vung tiền vào khuyến mãi để thúc đẩy hành vi tiêu dùng. Khách hàng không còn dễ dàng săn được mã giảm giá, hay nhận giao hàng miễn phí như trước. Nhà bán hàng cũng không chỉ đơn giản là ngồi chốt đơn. Họ phải đối mặt với đủ loại chi phí tăng – từ phí bán hàng của sàn, đến trách nhiệm thuế cũng như thay đổi trong cách quản lý hộ kinh doanh. Hết thời đóng thuế khoán đơn giản, giờ phải chứng minh đầu vào, rõ ràng từng con số.

Trước đây, mối quan hệ giữa bốn bên – sàn TMĐT, nhà bán, khách hàng, shipper – vẫn còn lỏng lẻo, phần vì thương mại điện tử còn quá mới nên hệ thống quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển. Nhưng khi bên thứ năm – cơ quan quản lý – chính thức nhập cuộc một cách chủ động và quyết liệt, mối quan hệ ấy đã biến thành mối quan hệ năm bên. Trong bài viết này, tôi muốn đi sâu vào sự tương tác giữa các bên và vai trò của mỗi bên để cùng xây dựng một hệ sinh thái lành mạnh cũng như có lợi cho tất cả, đúng như mong muốn của Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15/5/2020.

Lịch sử thương mại điện tử: xuất hiện muộn nhưng nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường

Có lẽ để hiểu Thương mại điện tử Việt Nam thì có thể nghiên cứu Thương mại điện tử tại Trung Quốc và áp dụng độ trễ khoảng 5-10 năm. Nếu đầu những năm 2000, các tập đoàn như Alibaba và JD.com ra đời, mở đường cho thị trường TMĐT nội địa Trung Quốc thì Tiki.vn xuất hiện năm 2010, khởi đầu từ bán sách, sau đó mở rộng thành nền tảng đa ngành, trở thành biểu tượng khởi nghiệp TMĐT tại Việt Nam, và Lazada nhảy vào năm 2012, Shopee nhảy vào 2016 và Tik Tok Shop 2022. Năm 2014 Trung Quốc có IPO lịch sử của Alibaba tại Mỹ với 25 tỷ USD trên sàn chứng khoán New York (NYSE) và bắt đầu mạnh mẽ vươn ra chinh phục thị trường toàn cầu thì phải tới năm 2021 Tiki mới chạm gần tới mốc định giá Kỳ lân (1 tỷ USD) và dự định IPO tại Hoa Kỳ nhưng bất thành và giờ đây đang bị bỏ lại khá xa so với Shopee và TikTok, những người đến sau. Chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng các doanh nghiệp TMĐT tại Việt Nam đã sao chép công thức thành công của các doanh nghiệp TMĐT Trung Quốc. Sự bùng nổ của thương mại điện tử Trung Quốc không thể tách rời vai trò đầu tàu của Alibaba. Tập đoàn này không chỉ bán hàng, mà còn xây dựng một hệ sinh thái khép kín, tích hợp từ thanh toán, logistics, đến công nghệ cá nhân hóa và truyền thông. Dưới đây là các chiến lược then chốt đã đưa Alibaba lên vị thế dẫn đầu:

Ngày hội mua sắm 11.11 – từ ý tưởng thành hiện tượng toàn cầu

Năm 2009, Alibaba khởi xướng Ngày Độc Thân (Singles’ Day) như một chiến dịch khuyến mãi. Từ đó, sự kiện này nhanh chóng trở thành lễ hội mua sắm trực tuyến lớn nhất thế giới. Doanh số tăng theo cấp số nhân: từ 0,05 tỷ RMB năm đầu tiên lên tới 268,4 tỷ RMB vào năm 2019. Không chỉ là cuộc đua giảm giá, 11.11 còn được biến thành một show truyền thông quy mô toàn cầu với gala giải trí, người nổi tiếng và chiến dịch marketing phủ sóng. Alibaba cũng mở rộng ra các dịp khuyến mãi khác như 12.12 để giữ nhiệt thị trường.

Xây dựng hệ sinh thái thanh toán và logistics riêng

Từ năm 2004, Alibaba phát triển Alipay – nền tảng thanh toán điện tử dựa trên mô hình ký quỹ (escrow), giúp giao dịch an toàn và tạo niềm tin cho người mua. Bên cạnh đó, mạng lưới logistics Cainiao được xây dựng để kiểm soát toàn bộ chuỗi vận hành, đặc biệt là khâu giao hàng cuối (last-mile delivery), cải thiện tốc độ và trải nghiệm mua sắm.

Livestream bán hàng – kênh thương mại chủ lực mới

Từ năm 2018, Alibaba đẩy mạnh hình thức bán hàng qua livestream, biến Taobao Live thành nền tảng quy tụ hàng nghìn KOLs. Livestream không chỉ tạo doanh thu lớn mà còn giúp người bán nhỏ, đặc biệt ở vùng nông thôn, tiếp cận thị trường rộng lớn.

Cá nhân hóa trải nghiệm mua sắm bằng công nghệ AI

Alibaba sử dụng trí tuệ nhân tạo để phân tích hành vi người dùng, từ lịch sử mua hàng đến thói quen duyệt web, nhằm đề xuất sản phẩm phù hợp và tăng tỷ lệ chuyển đổi.

Chiến lược giá linh hoạt và khuyến mãi liên tục

Alibaba thường xuyên tung ra chính sách giá cạnh tranh kết hợp khuyến mãi lớn: ưu đãi cho đơn hàng đầu tiên, giảm khi mua số lượng lớn… tạo cảm giác “mua là có lời” cho khách hàng.

Phát triển mô hình New Retail – bán lẻ tích hợp online và offline

Mô hình New Retail của Alibaba kết hợp thương mại điện tử và bán lẻ truyền thống. Điển hình là chuỗi Hema, nơi người dùng có thể đặt hàng online, đến cửa hàng trải nghiệm, hoặc nhận hàng tại nhà – tất cả trong hệ thống đồng bộ.

Hệ thống điểm tín dụng Zhima Credit

Zhima Credit (Sesame Credit) tích hợp dữ liệu từ Alipay và các nền tảng Alibaba để chấm điểm tín dụng người dùng. Điểm cao giúp khách hàng vay dễ hơn, nhận nhiều ưu đãi và xác thực nhanh hơn khi mua hàng.

Mở rộng chiều sâu chuỗi giá trị bằng dịch vụ tích hợp

Năm 2025, Alibaba sát nhập hàng loạt dịch vụ như Ele.me (giao đồ ăn), Fliggy (du lịch), và “instant retail” – giao hàng trong 30-60 phút. Tất cả nhằm tạo ra một hệ sinh thái liền mạch, giữ chân người dùng bằng trải nghiệm tiện lợi toàn diện.

Alibaba - Sự Tương Tác Phức Tạp Giữa Nhà Nước Và Vốn Tư Bản Trong Bối Cảnh Trung Quốc Vươn Ra Toàn Cầu

> Tìm hiểu thêm về cuốn sách: ALIBABA – Sự tương tác phức tạp giữa nhà nước và vốn tư bản trong bối cảnh Trung Quốc vươn ra toàn cầu

Và Shopee tại Việt Nam cũng đã có những bước đi tương tự như:

Livestream bán hàng – Shopee Live và chiến lược “Shoppertainment”

Shopee Live mang đến trải nghiệm tương tác trực tiếp giữa người bán và người mua, từ đó tăng niềm tin và nâng tỷ lệ chuyển đổi. Vào các dịp cao điểm như Tết hay ngày siêu sale 12.12, Shopee Live và Video giúp lượng đơn hàng tăng gấp 9-12 lần. Bán hàng giờ đây không chỉ là giao dịch, mà là nội dung giải trí thu hút.

Chiến dịch khuyến mãi theo ngày đặc biệt

Shopee phát động hàng loạt chiến dịch mua sắm như 9.9, 10.10, 11.11, 12.12… và các đợt ưu đãi theo mùa như Tết, lễ hội, nhằm liên tục duy trì lưu lượng truy cập và kích thích mua sắm quy mô lớn.

Ưu đãi mạnh tay: miễn phí vận chuyển, voucher, combo

Từ voucher cho người dùng mới, miễn phí vận chuyển toàn quốc, đến các gói combo/bundle – Shopee tận dụng các ưu đãi đơn giản nhưng hiệu quả để tăng giá trị đơn hàng và giữ chân người dùng quay lại.

Đẩy mạnh mạng xã hội và Influencer marketing

Shopee phủ sóng đồng loạt trên Facebook, TikTok, YouTube, Instagram, Zalo… kết hợp với mạng lưới influencer để tác động trực tiếp đến quyết định mua sắm, nhất là với thế hệ trẻ.

Gamification – trò chơi tích hợp để giữ chân người dùng

Các mini-game như Shopee Farm, What’s the Number hay Animal Picker biến trải nghiệm mua sắm thành hoạt động giải trí, kéo dài thời gian người dùng ở lại nền tảng và tạo thói quen truy cập hàng ngày.

Quảng cáo nội bộ – Shopee Ads

Shopee cung cấp nhiều loại quảng cáo nội sàn như Search Ads, Discovery Ads, Shop Search Ads và Display Ads, giúp người bán tăng khả năng hiển thị và tiếp cận đúng khách hàng mục tiêu.

Cá nhân hóa bằng công nghệ AI

Shopee sử dụng hệ thống đề xuất thông minh như MIEM (hệ thống nhúng đa modal), giúp tăng tỷ lệ nhấp (click-through rate) và lượng đơn hàng. Mô hình LightSAGE dựa trên GNN (graph neural network) cũng được triển khai để cải thiện quảng cáo và đề xuất cá nhân hóa theo hành vi người dùng.

Hệ sinh thái vận hành toàn diện

Shopee xây dựng mạng lưới logistics phủ khắp 63 tỉnh thành, cung cấp đa dạng hình thức thanh toán (COD, ví ShopeePay, chuyển khoản). Chính sách Shopee Guarantee đảm bảo quyền lợi người mua nếu có sự cố về đơn hàng, tạo nền tảng niềm tin để giao dịch online diễn ra thuận lợi.

Kết nối đa nền tảng – hợp tác YouTube Shopping

Shopee đang triển khai tích hợp với YouTube Shopping, cho phép người dùng mua hàng trực tiếp từ video. Sau khi thử nghiệm tại Indonesia, chiến lược này dự kiến sẽ mở rộng sang Việt Nam, mở thêm kênh tiếp cận khách hàng mới.

Nếu Shopee chiếm 55% tổng giá trị giao dịch TMĐT tại Việt Nam thì Tik Tok Shop chỉ sau 2-3 năm tham gia đã chiếm 42% bằng các chiến thuật tương tự cùng với một số ưu thế như sau:

Shoppertainment – mua sắm kết hợp giải trí

Tik Tok Shop khai thác triệt để mô hình “shoppertainment”: video ngắn, livestream giải trí gắn liền với sản phẩm. Người dùng vừa xem nội dung hấp dẫn, vừa có thể mua hàng ngay mà không rời ứng dụng – kích thích hành vi mua theo cảm xúc.

Livestream và video có thể mua ngay

Tính năng “shoppable” cho phép người bán tương tác thời gian thực và chốt đơn hàng ngay trên livestream. Các thương hiệu lớn như Yody, Dutch Lady hay Some By Mi đã tận dụng hình thức này để tăng mạnh doanh thu và độ phủ thương hiệu.

  • Yody: thu hút hơn 90.000 lượt theo dõi qua livestream.
  • Dutch Lady: doanh số tăng 25% trong 6 tháng.
  • Some By Mi: kết hợp KOLs để demo sản phẩm, doanh thu quý tăng khoảng 20%.

Affiliate & Influencer Marketing

TikTok triển khai hệ thống tiếp thị liên kết (affiliate) cho người tạo nội dung, với mức hoa hồng từ 5-20%. Các chương trình bonus, livestream dài thời lượng hoặc video được thưởng giúp kích thích sản xuất nội dung chất lượng, tăng chuyển đổi bán hàng.

Chiến dịch “Double Day” với creators nổi bật

Tik Tok tổ chức các chiến dịch bán hàng nhiều ngày (ví dụ: Double Day), tập trung vào creators lớn để tăng 15,4% lượt truy cập và đẩy GMV tăng 70%. Creators đóng vai trò như kênh truyền thông cá nhân hóa thay cho quảng cáo truyền thống.

Nội dung được nội địa hóa theo thị trường

Chiến lược tiếp thị của TikTok chú trọng nội địa hóa. Ví dụ: MAC Cosmetics hợp tác với KOL Việt nói tiếng Việt, giúp thương hiệu quốc tế kết nối tự nhiên hơn với người tiêu dùng bản địa và tăng doanh số đáng kể.

Trải nghiệm mua sắm liền mạch trong ứng dụng

Người dùng có thể xem video, tương tác livestream và mua hàng trực tiếp mà không cần rời nền tảng. Điều này giảm tối đa rào cản mua sắm và giúp chốt đơn nhanh hơn.

Nền tảng dữ liệu và phân tích cho người bán

TikTok cung cấp công cụ phân tích dữ liệu hành vi người dùng giúp người bán tối ưu hóa nội dung, điều chỉnh sản phẩm và chiến lược tiếp thị theo phản ứng thực tế từ thị trường.

Tăng trưởng vượt bậc về thị phần

Tik Tok Shop đầu tư rất mạnh vào đào tạo người bán và xây dựng cộng đồng để tạo nên các hình mẫu nhà bán hàng thành công, làm giàu nhanh chóng, nhằm thu hút những nhà bán hàng mới chập chững đầu tư shop mới trên Tik Tok Shop.

Shop Mall – tập trung vào cửa hàng chính hãng

Dù chỉ chiếm 3,4% số lượng cửa hàng, các Shop Mall lại đóng góp 28,7% tổng doanh thu. Điều này phản ánh người dùng ngày càng ưu tiên sản phẩm chính hãng, đặc biệt trong bối cảnh niềm tin là yếu tố sống còn của TMĐT.

Hỗ trợ người bán mới bằng chi phí thấp

Để mở rộng nhanh hệ sinh thái người bán, TikTok Shop cung cấp các ưu đãi như miễn phí vận chuyển, giảm giá cho khách hàng đầu tiên… giúp giảm rào cản và thu hút hàng loạt seller mới gia nhập nền tảng.

Nguồn: TikTokShop vươn lên chiếm 42% thị phần thương mại điện tử Việt Nam | Vietnam+ (VietnamPlus)

Mặc dù khi đi vào chi tiết chúng ta sẽ thấy có rất nhiều lớp lang trong chiến thuật lôi kéo người mua hàng của các sàn TMĐT, nhưng một cách tổng quát thì mấu chốt nằm ở tâm lý học hành vi của con người. Mọi chiến thuật đều tấn công vào lớp tâm lý phòng thủ của người mua hàng, bao gồm:

  • Hàng giả thì sao -> trả hàng miễn phí trong vòng 15 ngày
  • Tài chính không dư dả -> mua trước trả sau, ưu đãi sâu, thậm chí cho vay tín dụng để tiêu dùng thoải mái trước
  • Nhưng mà mua tận nơi thì đỡ tiền ship -> voucher miễn phí giao hàng
  • Liệu có phải là hàng tốt, hàng chất lượng không -> KOLs, livestream bán hàng trực tiếp
  • Tôi có thực sự cần sản phẩm này không -> cứ vào ngày lương về là spike day (ưu đãi ngập tràn, không mua thì tiếc)

TMĐT dần dần trở thành một sân chơi tự do, khó quản lý, mà ở đó các Big Tech thoải mái sáng tạo luật chơi mới, và tất nhiên không hề ít các vấn đề đi kèm.

>> Tìm hiểu thêm về Dự án xuất bản sách nghiên cứu chính trị – kinh tế Trung Quốc của Book Hunter: Dự án xuất bản sách nghiên cứu chính trị – kinh tế Trung Quốc của Book Hunter

Buông lỏng quản lý TMĐT và hệ lụy

Trong cuốn sách Trung Quốc quản lý Big Tech và Nền kinh tế như thế nào, Angela Huyue Zhang đã liệt kê 2 chiến thuật lớn mà các Big Tech tại Trung Quốc đã áp dụng đó là: Lách luật Lộng giả thành chân.

“Lách luật là một chiến lược mà theo đó các công ty cố gắng né tránh những luật bất lợi bằng cách khai thác lỗ hổng pháp lý. Các công ty công nghệ Trung Quốc rất giỏi trong việc lách luật bằng cách đổi mới tức tốc để tận dụng các khoảng trống trong quy định hiện hành. Hiện tượng này chắc chắn không phải là đặc thù của các công ty Trung Quốc—Elizabeth Pollman và Jordan Barry đã chỉ ra rằng các công ty công nghệ Mỹ như Uber và Airbnb đã ở trong các vùng pháp lý xám và đã hung hăng vận động hành lang để thay đổi luật. Mặc dù các công ty công nghệ Trung Quốc không phải lúc nào cũng hướng tới thay đổi luật, nhưng họ cũng đã áp dụng chiến lược “đầu tư trước và xin cấp phép sau”. Khi nhiều sản phẩm hoặc dịch vụ của họ dường như không nằm gọn gàng vào các khuôn khổ pháp lý hiện hành, không rõ cơ quan quản lý nào chịu trách nhiệm giám sát các vấn đề họ gây ra. Sự trì trệ quan liêu mà chúng ta thấy được trong bối cảnh Trung Quốc đóng góp thêm vào khoảng trống pháp lý. Bởi vì thời điểm là cực kỳ quan trọng để các công ty công nghệ chiếm lĩnh thị trường, các công ty công nghệ Trung Quốc rất chú trọng tới việc giành được lợi thế người đi đầu bằng cách thâm nhập và đứng số một trên thị trường. Sau đó họ có thể bắt đầu vận động hành lang chính phủ để nhận được sự hỗ trợ và ủng hộ lúc hoạt động kinh doanh của họ mở rộng và phát triển. Ngay cả khi các công ty công nghệ tự khởi xướng mà không cần có sự chấp thuận cần thiết từ chính phủ, vi phạm pháp luật của họ sẽ không gây gián đoạn lớn cho công việc kinh doanh miễn là mức phạt có thể chấp nhận được. Ngành công nghệ tài chính Trung Quốc cung cấp những ví dụ tuyệt vời cho chiến lược này. Alipay, một trong hai nền tảng thanh toán trực tuyến lớn nhất Trung Quốc, cung cấp dịch vụ chuyển tiền từ người tiêu dùng đến người bán trên nền tảng thương mại điện tử của mình. Nó cũng cung cấp dịch vụ ký quỹ cho người tiêu dùng Taobao, chỉ giải ngân thanh toán cho người bán sau khi người mua nhận được hàng hóa họ đã đặt. Sự đổi mới quan trọng này đã giúp Taobao phát triển theo cấp số nhân bằng cách giải quyết sự mất lòng tin vốn có giữa các bên giao dịch. Tuy nhiên, trước khi Alipay xuất hiện, thanh toán qua bên thứ ba là một khu vực pháp lý mơ hồ ở Trung Quốc. Jack Ma, người sáng lập nền tảng này, thậm chí đã sẵn sàng vào tù để ra mắt dịch vụ này. Nhưng canh bạc của Jack Ma đã thành công. Alipay đã trở nên nổi tiếng và cuối cùng giành được sự chấp thuận của các cơ quan quản lý. Năm 2010, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã ban hành các biện pháp hành chính đối với dịch vụ thanh toán phi tài chính và việc thực thi chúng, qua đó công nhận sự hợp pháp ngay cả trong quá khứ của các nền tảng thanh toán trực tuyến như Alipay. Năm tiếp theo, Alipay đã nhận được giấy phép kinh doanh thanh toán và trở thành một trong những tổ chức phi tài chính đầu tiên thực hiện các hoạt động thanh toán. Yu’e Bao, một quỹ thị trường tiền tệ trực tuyến do Alibaba giới thiệu vào năm 2013, cung cấp một ví dụ khác. Yu’e Bao cho phép khách hàng của Alipay gửi số tiền còn lại trong tài khoản của họ để kiếm lãi suất cao hơn so với những gì ngân hàng cung cấp. Nó nhanh chóng trở thành quỹ thị trường trực tuyến lớn nhất của Trung Quốc, với sự tăng trưởng bùng nổ khiến các thành viên trong ngành ngạc nhiên và kích thích các công ty công nghệ khác như Baidu và Tencent tham gia. Mặc dù các nhà quản lý tài chính Trung Quốc bị áp lực phải áp đặt các hạn chế pháp lý đối với Yu’e Bao, nhưng phải đến năm 2017, PBOC mới bắt đầu áp đặt giới hạn để quản lý quỹ này. Thực tế, ngân hàng trung ương đã hỗ trợ sự phát triển của Yu’e Bao trong những ngày đầu như một phương tiện để thúc đẩy tự do hóa thị trường tài chính.” (Trích trang 51-52).

Về chiến thuật Lộng giả thành chân (fake it until make it), Angela Huyue Zhang đã viết như sau:

“Hãy xét trường hợp Taobao, nhà bán lẻ thương mại điện tử lớn nhất Trung Quốc. Cũng như các nhà bán lẻ trực tuyến khác đã làm, Taobao thiết lập một cơ chế đánh giá, cho phép khách hàng đăng đánh giá về các sản phẩm họ đã mua. Thật không may, các đánh giá giả mạo rất phổ biến ở Trung Quốc. Trong năm 2014, một giám đốc tại Alibaba tiết lộ rằng 17% người bán trên Taobao đã giả mạo gần 500 triệu giao dịch, và bổ sung rằng đó chỉ là “phần nổi của tảng băng” và có hàng chục nghìn người ở Trung Quốc tham gia vào việc bán hàng giả mạo trực tuyến. Một số bên ước tính rằng 80% người bán trên Taobao đã thực hiện giả mạo sự tín nhiệm vào một thời điểm nào đó trong hoạt động kinh doanh của họ. Sự phổ biến của vấn đề này đã dẫn đến tình huống mà những nhà bán hàng đứng đầu cảm thấy họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc sử dụng đánh giá giả để bảo vệ thứ hạng của họ. Các nền tảng thương mại điện tử Trung Quốc cũng nổi tiếng vì bán các sản phẩm giả mạo. Ngành công nghiệp hàng nhái khổng lồ của Trung Quốc đã rất nhanh chóng sản xuất ra các sản phẩm shanzhai— tức là các sản phẩm thường bắt chước diện mạo và chức năng của các thương hiệu thời trang cao cấp cũng như các sản phẩm điện tử cao cấp. Một ví dụ nổi tiếng gần đây về nền tảng bán sản phẩm shanzhai là Pinduoduo, đã bị chỉ trích nặng nề trên truyền thông Trung Quốc vì bán ra các sản phẩm nhái giá rẻ giống các thương hiệu nổi tiếng. Vài ngày sau khi Pinduoduo niêm yết trên sàn chứng khoán Nasdaq vào năm 2018, SAMR, cơ quan giám sát thị trường của Trung Quốc, đã thông báo điều tra công ty này do các báo cáo về hàng giả tràn lan trên trang web của họ. Huang Zheng, người sáng lập và CEO của nền tảng này, đã phản hồi bằng cách nói rằng công ty của ông đã tăng cường nỗ lực để giải quyết việc bán hàng giả, nhưng cũng nhấn mạnh rằng sản phẩm shanzhai không nên bị nhầm lẫn với hàng giả.” (Trích trang 54)

Có lẽ nếu những ai đã mở shop và buôn bán trên sàn TMĐT thì cũng đều đã được chào mời tham gia các gói buff đơn, tức là không cần gửi hàng thật mà chỉ cần hộp giả và sẽ có những người vào mua, review sản phẩm 5 sao, hoặc những gói chào bán 10k, 20k likes cho các shop mới.

Angela Huyue Zhang cũng phân tích thêm, “Trong khi đó, các công ty công nghệ Trung Quốc rất thành thạo và biết cách tận dụng môi trường chính sách thuận lợi để vận động cho sự ủng hộ chính trị. Những công ty này gây ảnh hưởng đến quá trình chính trị thông qua hai kênh chính. Thứ nhất là thông qua việc sử dụng các kênh thể chế chính thức như thông qua việc làm thành viên của đảng hoặc các hội nghị lập pháp và tư vấn khác. Ví dụ, Jack Ma, nhà sáng lập của Alibaba và Ant Group, đã là thành viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc từ những năm 198016. Một số doanh nhân công nghệ phục vụ trong Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (NPC), cơ quan lập pháp hàng đầu của Trung Quốc, hoặc trong Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân, cơ quan tư vấn hàng đầu (hai cơ quan này được gọi chung là “lưỡng hội”). Các lãnh đạo hàng đầu của các công ty công nghệ lớn Trung Quốc đã tích cực tham gia vào “lưỡng hội” và đã đệ trình các đề xuất cho nền kinh tế số. Pony Ma (Mã Hóa Đằng), CEO và người sáng lập của Tencent, được cho là đã nộp hơn 50 đề xuất cho NPC trong thập kỷ qua. Tuy nhiên, các nhà bình luận lưu ý rằng, các đề xuất này chủ yếu mang ý nghĩa “như cử chỉ trung thành đối với chính phủ hơn là những sáng kiến chính sách thực sự”, chủ yếu vì NPC là một quốc hội chỉ đóng vai trò hợp thức hóa. Các học giả khác đã cho rằng tư cách thành viên lập pháp thể hiện năng lực chính trị của một công ty công nghệ, từ đó giúp họ nhận được sự ưu đãi và đối phó với việc chiếm đoạt tài sản bởi hệ thống quản lý chính phủ. Kênh thứ hai mà các công ty công nghệ Trung Quốc sử dụng để tác động chính trị là thông qua các tổ chức không chính thức. Trong Chương 1, tôi đã lưu ý cách mà các công ty công nghệ Trung Quốc dựa vào các chính trị gia cấp cao hoặc đối tác SOE—nói chung là các trung gian chính trị—để tác động đến quy trình quản lý. Các công ty công nghệ cũng nhờ cậy cựu quan chức chính phủ hoặc các học giả, những người hoặc được tuyển dụng làm nhân viên nội bộ hoặc được mời hợp tác hoặc tài trợ thông qua các tổ chức học thuật hoặc nghiên cứu. Vì loại trung gian này chủ yếu tạo điều kiện trao đổi thông tin giữa các công ty và cơ quan quản lý, tôi gọi họ là “trung gian thông tin”. Trong vài năm qua, nhiều công ty công nghệ lớn nhất của Trung Quốc, bao gồm Tencent, Alibaba, ByteDance, Didi Chuxing và Meituan, đã thu hút các cựu quan chức quản lý và đưa ra các khoản thưởng hậu hĩnh.” (Trích trang 64-65).

Như vậy, trong mối quan hệ 5 bên: sàn TMĐT, nhà bán hàng, khách hàng, shipper – cơ quan quản lý, thì chúng ta đã khảo sát qua được 2 thành phần đó là sàn TMĐT và cơ quan quản lý, một mối quan hệ hợp tác, có cơ chế tác động qua lại lẫn nhau và khó có thể nói bên nào nắm phần chủ động còn bên nào ở thế bị động. Điểm chung của 2 thành phần này đó là đều thuộc về phía quản lý, tức là bên đưa ra luật chơi. 3 thành phần còn lại bao gồm nhà bán hàng, khách hàng và shipper là những người thuộc về phía bị quản lý, phần lớn là bị động và phải tuân theo luật chơi được thay đổi do 2 thành phần ở thế chủ động đưa ra. Và hầu hết, khi có tranh chấp, xung đột lợi ích, 3 thành phần này dễ bị rơi vào tình trạng bị đối xử bất công. Angela Huyue Zhang gộp chung 3 thành phần này vào nhóm “người tham gia nền tảng” và phân tích như sau:

“Nói chung, những người tham gia nền tảng không đóng vai trò nổi bật trong quy trình quản lý của Trung Quốc. Bởi vì nhiều giao dịch trực tuyến chỉ có giá trị nhỏ, người tiêu dùng thường không thấy đáng để khiếu nại chính thức đến các cơ quan công quyền như cơ quan hành chính hoặc tòa án. Như Van Loo quan sát một cách súc tích: “đối với những [tranh chấp giao dịch giá trị nhỏ] này, không giống như trong các bối cảnh thường được nghiên cứu, công ty là thứ gần nhất với tòa án đối với hầu hết người tiêu dùng”. Như tôi sẽ trình bày thêm trong Chương 4 và 5, hầu hết những người tham gia nền tảng phụ thuộc rất nhiều vào quy trình giải quyết tranh chấp nội bộ của nền tảng để giải quyết xung đột của họ, do đó biến nền tảng thành một nhà quản lý bán chính thức. Khi xảy ra tranh chấp giá trị lớn giữa các nền tảng và người tham gia, người tham gia có động lực mạnh mẽ để lên tiếng về những bất bình của họ. Tuy nhiên, sự kiểm duyệt diện rộng và sự chèn ép nhân quyền khiến cho người tham gia nền tảng vô cùng khó khăn trong việc bày tỏ sự phản đối. Kết quả là, họ cần phải hét lên những bất bình của mình hoặc thực hiện các cuộc biểu tình bạo lực để những yêu cầu của họ được các nhà quản lý chú ý và lắng nghe. Điểm thú vị là người tham gia nền tảng ở Trung Quốc thường không tìm đến các cơ quan công quyền chính thức, mà thay vào đó phản đối thông qua các tổ chức phi chính thức. Chẳng hạn, khi Taobao tăng phí truy cập đối với người bán hàng trực tuyến vào năm 2013, hàng ngàn thương nhân đã phản đối bằng cách phá hoại và làm tê liệt cơ chế đánh giá trực tuyến của Taobao. Điều này đã thu hút sự chú ý từ nhà quản lý, người cuối cùng đã can thiệp và giải quyết vấn đề theo hướng có lợi cho người bán, một sự cố mà tôi sẽ thảo luận thêm trong Chương 8. Tuy nhiên, chiến thắng của người bán hàng Taobao là một thành công hiếm có. Rất thường xuyên, các hành động tập thể của những người tham gia nền tảng bị áp chế ở Trung Quốc do sự kiểm duyệt chặt chẽ và phổ biến cũng như sự không khoan nhượng đối với các tổ chức dân sự. Như sẽ được minh họa trong Chương 6, trước đây các tài xế giao hàng đã tổ chức công đoàn hoặc đình công để cùng nhau đàm phán với các công ty công nghệ lớn hoặc nâng cao vị thế thương lượng của họ. Tuy nhiên, chính quyền địa phương trấn áp những nỗ lực như vậy vì lo ngại sự bất ổn xã hội. Việc đàn áp các cuộc biểu tình từ các công đoàn lao động không chính thức đã khiến nhân viên giao hàng càng khó lên tiếng phản ánh bức xúc. Một số nhân viên giao hàng bất lực đã phải sử dụng đến các biện pháp cực đoan. Vào đầu năm 2021, một nhân viên giao hàng đã tự thiêu sau khi một công ty môi giới được thuê bởi nền tảng giao đồ ăn Ele.me từ chối trả lương cho anh ta vì anh ta đã chuyển sang một nền tảng khác. Tin tức bi thảm này đã lan truyền trên mạng xã hội, càng làm gia tăng sự bất mãn của công chúng đối với các nền tảng giao hàng.” (Trích trang 57-68)

Trung Quốc quản lý Big Tech và nền kinh tế như thế nào – Angela Huyue Zhang
Trung Quốc quản lý Big Tech và nền kinh tế như thế nào – Angela Huyue Zhang

Các shipper công nghệ tại Việt Nam dù một thời gian dài không được đối xử như nhân viên chính thức và không có công đoàn để bảo vệ quyền lợi, họ đã tự hình thành các cộng đồng trên mạng xã hội và trở thành một tiếng nói có trọng lượng lớn, đơn cử như vụ 30 ly chè gần đây khi mà tài xế Đức ship đơn hàng cho bạn Thu Trang qua sàn Shopee Food đã xảy ra mâu thuẫn giữa 2 người khi nhập nhằng trách nhiệm giữa 3 bên: khách hàng, shipper và nhà bán hàng. Khách hàng mong muốn mua 30 cốc chè và có tên từng người trên cốc, hẳn nhiên rồi vì mỗi người một vị khác nhau, và khách hàng cũng đã ghi chú trong đơn rõ ràng là yêu cầu nhà bán hàng làm việc đó, và nhờ shipper nhắc nhà bán hàng thực hiện yêu cầu này. Xung đột bắt đầu phát sinh bởi vì yêu cầu ghi tên người lên 30 cốc không nằm trong trách nhiệm của bất cứ ai, kể cả shipper hay nhà bán hàng. Theo lập trình app thông thường của Shopee Food hay Grab Food, mỗi khách hàng được định danh bằng tên trên tài khoản đăng ký với app, vậy nên về mặc định thì sản phẩm mua đều đứng tên của chủ tài khoản và được in ra từ bill của hệ thống Shopee Food rất dễ dàng và nhanh chóng. Vậy nhưng thiết kế app lại có thêm một phần Ghi chú, rất tùy tiện và không có hạn chế, là nơi tiếp nhận sự thỏa thuận giữa 3 bên: người mua hàng, nhà bán hàng và shipper, thế nhưng không hề có một cơ chế chính thức để giúp cho cả 3 bên đến được sự đồng thuận cuối cùng. Khi xảy ra sự hiểu lầm, vốn rất thường xuyên, đến từ trình độ học vấn, từ sự khắc nghiệt của môi trường làm việc (nắng to, mưa to, cồng kềnh…) khiến cho shipper và nhân viên của nhà bán hàng thường không đáp ứng được những yêu cầu phức tạp. Nếu theo quy định thì khách hàng không hề sai khi đặt mua số lượng lớn, thậm chí còn giúp gia tăng GDP, và cũng đã lịch sự và cẩn thận khi yêu cầu rõ trong đơn đối với nhà bán hàng và shipper, bằng chứng là đơn hàng cũng đã được thực hiện thành công. Shipper Đức cũng không sai khi trách nhiệm của Đức thuần túy là nhận và giao hàng, còn nếu phát sinh thêm thao tác hay trách nhiệm khác thì có thể nằm ngoài năng lực của Đức. Câu chuyện lẽ ra chỉ dừng ở đó, Đức từ chối nhận đơn vì nằm ngoài khả năng của bản thân, và một shipper khác sẽ nhận cuốc và thực hiện theo mong muốn của khách hàng.

Thế nhưng vì mất bình tĩnh mà khách hàng đã có lời lẽ xúc phạm shipper dẫn tới việc shipper bức xúc và vi phạm quy định của Shopee Food khi đăng tải thông tin khách hàng công khai sau khi khách hàng khiếu nại lên Shopee Food.

Câu chuyện chưa dừng ở đó vì mỗi hành động lại để lại một nghiệp quả tiếp theo. Shipper mất việc và quay lại đòi bồi thường. Và cứ như vậy, các mâu thuẫn cá nhân giữa những người vốn dĩ chẳng hề có quan hệ gì với nhau nhưng đã tác động tới cuộc sống của nhau thông qua một nền tảng chung đó là sàn TMĐT.

 

Shipper thì cũng có nhiều kiểu mà khách hàng cũng có nhiều kiểu. Mỗi ngày có hàng trăm nghìn tương tác mới được tạo ra giữa shipper và người mua hàng, và không phải tương giao nào cũng suôn sẻ, không phải tương giao nào cũng được xây dựng từ người mua hàng thông thái và shipper thông minh. Người mua hàng và shipper đều gặp phải rất nhiều trường hợp éo le và thiệt hại qua mỗi lần tương tác trên sàn TMĐT.

Chúng ta có thể liệt kê ra rất nhiều sự vụ shipper bị đánh, bị cướp, bị lừa… trong thời gian qua. Đơn cử như vụ shipper Thành bị đánh tử vong vì mâu thuẫn với khách hàng mà dẫn tới bị công ty giao hàng phạt 500.000đ. Hay như vụ nam shipper bị nắm tóc rồi đánh tới tấp hôm 18-5-2025 ở địa bàn phường An Phú, TP Thủ Đức cũng đã gây nhiều bức xúc. Ngoài ra các vụ shipper bị cướp hàng hóa, bị cướp xe cũng xảy ra mà chưa có thống kê cụ thể. Rõ ràng, shipper không phải là một nghề đơn giản và tùy tiện mà ai cũng có thể làm. Shipper cần phải có các kỹ năng xem bản đồ, giao tiếp tốt, sử dụng các ứng dụng điện thoại thành thạo, có tâm lý vững vàng để đối phó với nhiều tình huống phức tạp, mỗi ngày phải tiếp xúc với hàng chục người lạ, chưa từng và sẽ hiếm khi gặp lại trong cuộc đời họ. Nhận đơn, chạy xe và giao hàng theo định vị, shipper không thể mặc định rằng khách hàng nào cũng là người tốt, khu vực nào cũng an toàn. Không thiếu trường hợp shipper bị lợi dụng giao ma túy, hàng cấm và đi tới những khu vực nguy hiểm. Các công ty TMĐT đã tận dụng sự mới mẻ, buông lỏng quản lý để nhanh chóng chiếm lĩnh thị phần của bán hàng truyền thông. Chi phí cửa hàng, đặc biệt là chi phí mặt bằng leo cao vì giá nhà đất leo thang liên tục. Chi phí bảo hiểm hiểm bắt buộc vốn chiếm hơn 30% lương. Tất cả những khoản chi tương đối lớn này thì sàn TMĐT không phải trả cho hàng chục nghìn, thậm chí hàng trăm nghìn tài xế, hiện đang ký hợp đồng cộng tác viên với rất nhiều trách nhiệm được đặt vào phía tài xế. Angela Huyue Zhang đã phân tích như sau về các shipper công nghệ tại Trung Quốc:

“Người lao động là những người khiếu nại chính khi nói đến việc bóc lột lao động bởi các nền tảng trực tuyến. Những khiếu nại của họ bao gồm đơn hàng không đủ, lương thấp, phạt tùy tiện, giờ làm việc mệt mỏi và các vấn đề an toàn. Dù những vấn đề này là nghiêm trọng nhưng các phương thức giải quyết chúng có phần hạn chế. Thật vậy, khi các vấn đề nảy sinh, người lao động đã báo cáo rằng rất khó khăn trong việc liên lạc với đại diện nền tảng. Sự độc quyền của Tổng Liên đoàn Lao động Trung Quốc (ACFTU) trong việc đại diện công đoàn khiến người lao động không thể tự thành lập công đoàn của riêng họ để đại diện một cách hiệu quả. Khi không có sự bảo vệ pháp lý cho hành động tập thể, những người lao động tham gia đình công phải tự chịu rủi ro. Như đã thảo luận trước đó trong chương này, các cuộc biểu tình của người lao động thường mang tính địa phương, quy mô nhỏ và ngắn hạn. Ví dụ, vào tháng 6 năm 2021, một tài xế giao hàng tại Thẩm Dương đã nhận 253 đơn trong vòng bốn giờ và ngay lập tức nhấn “hoàn thành đơn hàng” cho từng đơn một. Hành động này được coi là một sự trả đũa đối với các hình phạt không hợp lý của Meituan. Vào năm 2021, như đã đề cập trước đó trong Chương 1, một tài xế giao hàng 45 tuổi của Ele.me đã phản đối việc không được trả lương bằng cách tự thiêu. Vụ việc đã thu hút sự chú ý rộng rãi và gây ra sự phẫn nộ trên toàn quốc. Vào tháng 8 năm 2022, một tài xế giao thức ăn khác đã tự đâm mình trước điểm giao hàng sau khi được thông báo bởi quản lý trạm rằng anh ta sẽ bị phạt 1.000 nhân dân tệ nếu nghỉ việc. Nhưng đây là những trường hợp cực đoan. Các tài xế giao hàng có xu hướng tổ chức các cuộc kháng cự kín đáo hơn để tránh những cuộc đàn áp có thể từ nhà nước. Ở Thượng Hải và Quảng Đông, các tài xế giao hàng đã tổ chức kháng cự quy mô nhỏ, nhắm vào các quản lý trạm của các công ty điều phối trực tiếp giám sát họ. Thay vì tham gia vào các hình thức biểu tình truyền thống, các động đã tổ chức đình công qua WeChat hoặc các công cụ liên lạc khác để cùng nhau từ chối nhận giao hàng trực tuyến. Những cuộc đình công nhỏ này không phải lúc nào cũng hiệu quả, nhưng chúng cho thấy rằng thỉnh thoảng người lao động có chút đòn bẩy trong việc đối phó với các quản lý trạm. Bởi vì hiệu suất của các công ty điều phối liên tục được các nền tảng giao hàng đánh giá, các quản lý trạm lo sợ các chỉ số hiệu suất kém có thể là kết quả của những cuộc đình công như vậy. Vào đầu tháng 9 năm 2020, tạp chí Renwu ở Trung Quốc đã công bố một bài điều tra về điều kiện làm việc khắc nghiệt mà các nhân viên giao hàng ở Trung Quốc phải chịu đựng. Dựa trên hàng chục cuộc phỏng vấn với tài xế, nhân viên công ty và các học giả, báo cáo đã tiết lộ chi tiết cách mà người lao động đã trở thành nô lệ cho các thuật toán được kiểm soát bởi các nền tảng. Báo cáo đã phát hiện ra rằng các thuật toán này áp đặt các thời hạn gần như không thể cho việc giao đồ ăn. Kết quả là, người lao động phải chịu áp lực cực độ để vượt qua dòng phương tiện lưu thông cũng như bị cuốn vào các tranh chấp không ngừng với chủ nhà hàng và khách hàng. Báo cáo này đã lan truyền nhanh chóng trên mạng Internet Trung Quốc, gây ra một làn sóng phản ứng mạnh mẽ từ công chúng. Trên Weibo (phiên bản Twitter của Trung Quốc), bài viết đã thu hút hơn 3 triệu lượt xem chỉ trong vòng một tháng. Phương tiện truyền thông nhà nước cũng tham gia chỉ trích, kêu gọi giám sát chặt chẽ hơn các nền tảng, nhấn mạnh rằng cần phải đối xử với những người lao động này như là “con người thay vì máy móc”. (Trích trang 220-221)

Vấn đề lớn nhất mà các khách hàng gặp phải khi tham gia sàn TMĐT chính là bị rủi ro lộ danh tính. Angela Huyue Zhang cho rằng: “người tiêu dùng không có nhiều tiếng nói trong quá trình quản lý. Thật vậy, sự bất mãn của công chúng thường bị dập tắt, ngoại trừ trong các khảo sát người tiêu dùng hoặc như được truyền tải bởi các báo cáo tin tức. Một khảo sát người tiêu dùng năm 2016 tiết lộ rằng 85% người dân đã phải chịu một số dạng rò rỉ dữ liệu, từ việc số điện thoại của họ bị bán và sử dụng bởi kẻ lừa đảo cho đến việc tài khoản ngân hàng của họ bị đánh cắp. Năm 2016, một cô gái 18 tuổi tên là Xu Yuyu đã chết vì một cơn đau tim sau khi mất gần hết tiền tiết kiệm cho học phí đại học của mình, hệ quả của một trò lừa đảo qua điện thoại. Những tên tội phạm đã thành công trong việc tạo được lòng tin của Xu vì chúng đã mua dữ liệu của cô từ nền kinh tế ngầm. Việc truyền thông Trung Quốc đưa tin rộng rãi về câu chuyện này đã thổi bùng lên làn sóng phản đối của công chúng đòi hỏi các quy định chặt chẽ hơn về quyền riêng tư. Thỉnh thoảng, người tiêu dùng cá nhân cũng có hành động khiếu nại với chính quyền. Nhưng điều này thường xảy ra trong các chiến dịch thực thi luật tạm thời, khi những bất bình của công chúng giúp tăng cường tính hợp pháp cho các hành động của cơ quan chức năng. Ví dụ, vào tháng 3 năm 2019, Lực lượng Liên hiệp Quản lý Ứng dụng đã tạo một blog WeChat để xử lý các khiếu nại của người tiêu dùng liên quan đến các ứng dụng. Đến cuối năm đó, họ đã nhận được 12.125 khiếu nại liên quan đến hơn 2.300 ứng dụng. Tuy nhiên, kênh khiếu nại đã bị đóng lại sau cuộc kiểm tra năm 2019. Điều này có thể là do các cơ quan chức năng không còn muốn xử lý quá nhiều khiếu nại, hoặc vì quá nhiều khiếu nại sẽ để lại ấn tượng rằng việc thực thi trước đó của họ không hiệu quả.” (Trích trang 179).

Các quy định chính sách nhằm chấn chỉnh TMĐT

Để chấn chỉnh vấn đề rủi ro dữ liệu cá nhân của người tiêu dùng, Trung Quốc đã ban hành các luật liên quan như Luật Bảo vệ Thông tin Cá nhân (PIPL) – đạo luật toàn diện đầu tiên của Trung Quốc về bảo vệ dữ liệu cá nhân – được thông qua ngày 20/8/2021 và chính thức có hiệu lực từ 1/11/2021. Luật này được xem như phiên bản Trung Quốc của GDPR (Liên minh Châu Âu), với mục tiêu rõ ràng: bảo vệ quyền riêng tư cá nhân và kiểm soát cách doanh nghiệp, tổ chức và cơ quan nhà nước thu thập, xử lý và lưu trữ dữ liệu người dùng. Và Luật Bảo mật Dữ liệu (DSL) được thông qua ngày 10/6/2021 và bắt đầu có hiệu lực từ 1/9/2021. Khác với PIPL tập trung vào dữ liệu cá nhân, DSL đặt mục tiêu phân loại dữ liệu theo mức độ quan trọng và bảo vệ dữ liệu mang tính chiến lược quốc gia. Đồng thời, luật này cũng siết chặt việc chuyển dữ liệu xuyên biên giới, nhằm kiểm soát luồng thông tin ra ngoài lãnh thổ. Việt Nam cũng đã ban hành kịp thời Luật dữ liệu (số 60/2024/QH15), là luật đầu tiên của Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 1/7/2025, nhằm tạo khung pháp lý thống nhất cho việc xây dựng, phát triển, quản lý và sử dụng dữ liệu số. Luật này quy định về các loại dữ liệu, cơ chế quản lý nhà nước về dữ liệu, quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, và các hoạt động liên quan đến dữ liệu số để thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số và bảo đảm an ninh.

Giữa người mua hàng và shipper thì dễ thấy shipper là nhóm người gặp nhiều rủi ro hơn và cần có cơ chế quản lý cẩn thận hơn. Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam chưa có bất kỳ quy định pháp lý riêng nào điều chỉnh trực tiếp hoạt động của lực lượng shipper trên các nền tảng thương mại điện tử. Điều này tạo nên khoảng trống rõ rệt, đặc biệt khi so sánh với nhiều quốc gia đã ban hành các quy định cụ thể về điều kiện vận hành, an toàn lao động hoặc cơ chế bảo vệ người tiêu dùng liên quan đến shipper. Các văn bản pháp lý như Nghị định 52/2013/NĐ-CP và bản sửa đổi Nghị định 85/2021/NĐ-CP chủ yếu tập trung vào hoạt động kinh doanh TMĐT, thông báo vận hành, giao kết hợp đồng điện tử và quy trình thanh toán. Tuy nhiên, không có nội dung nào đề cập tới trách nhiệm hay cơ chế quản lý đối với đội ngũ giao hàng. Ngay cả những văn bản cập nhật gần đây như Nghị định 117/2025/NĐ-CP (quản lý thuế TMĐT) hay Dự thảo Luật TMĐT sửa đổi (kiểm soát livestream, siết chất lượng hàng hóa trên sàn…) cũng tiếp tục bỏ ngỏ vai trò và trách nhiệm pháp lý của shipper trong toàn bộ chuỗi cung ứng TMĐT. Có lẽ chúng ta sẽ trông chờ vào các quy định liên quan tới shipper trong các văn bản sắp tới, hoặc shipper công nghệ sẽ sớm biến mất khi Việt Nam triển khai robot giao hàng tự động?

Phần cuối của bài viết này tôi xin phân tích nhân tố thứ 5 của mối quan hệ phức hợp 5 bên – sàn TMĐT, người mua hàng, cơ quan quản lý, shipper và nhà bán hàng. Nhân tố đó chính là nhà bán hàng (hay được gọi tắt là shop, seller, người bán). Trong giai đoạn đầu của sàn TMĐT, cơ quan quản lý cho phép cá nhân, hộ kinh doanh và doanh nghiệp đồng thời được bán hàng trên sàn TMĐT. Mô hình Hộ kinh doanh vốn là một mô hình đang chiếm ưu thế về số lượng tại Việt Nam. Năm 2024 cả nước có khoảng 3.6 triệu hộ kinh doanh, trong khi chỉ có gần 1 triệu doanh nghiệp. Trước năm 1986, mô hình kinh doanh hộ gia đình đã tồn tại dưới nhiều tên gọi như “tổ chức tiểu sản xuất hàng hóa”, hộ cá thể, hộ tiểu công nghiệp… Tuy nhiên, chưa có khung pháp lý rõ ràng.
Đến năm 1988, Nghị định 27-HĐBT được ban hành, lần đầu tiên đưa ra chính sách cho kinh tế cá thể và tư doanh, bao gồm cả sản xuất công nghiệp, dịch vụ và vận tải – mở đường cho việc công nhận vai trò của khu vực phi nhà nước. Năm 1990, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty ra đời – thiết lập nền tảng pháp lý đầu tiên cho kinh tế tư nhân, dù chưa phân định cụ thể hộ kinh doanh với doanh nghiệp. Đến năm 1999, Luật Doanh nghiệp hợp nhất các văn bản trước đó, khẳng định nguyên tắc tự do kinh doanh nhưng vẫn chưa làm rõ vai trò pháp lý riêng biệt của hộ kinh doanh cá thể. Năm 1992, Nghị định 66/HĐBT chính thức công nhận mô hình hộ kinh doanh cá thể, phù hợp với thực tiễn của kinh tế nhỏ lẻ. Năm 2000, Nghị định 02/2000/NĐ‑CP bổ sung quy định quản lý hộ kinh doanh, nhưng áp dụng hạn chế thuê lao động. Đến năm 2004, Nghị định 109/2004/NĐ‑CP gỡ bỏ rào cản này nhằm thúc đẩy sự phát triển. Từ năm 2006, thuật ngữ “hộ kinh doanh” bắt đầu xuất hiện chính thức trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, các giới hạn vẫn còn: hộ kinh doanh chỉ được thuê dưới 10 lao động – nếu vượt quá sẽ buộc phải chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp. Nghị định 01/2021/NĐ‑CP dành riêng một chương cho hộ kinh doanh (Điều 79), lần đầu tiên xác lập đầy đủ các quyền và nghĩa vụ: Chủ thể là cá nhân hoặc thành viên hộ gia đình, chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản cá nhân; Được phép đăng ký nhiều địa điểm kinh doanh, thuê người quản lý, sử dụng trên 10 lao động và thực hiện các thủ tục thay đổi, tạm ngừng, hoặc giải thể. Thông tư 01/2021/TT‑BKHĐT hướng dẫn cụ thể thủ tục đăng ký hộ kinh doanh, áp dụng cho cả hình thức trực tuyến và trực tiếp và Thông tư 02/2023/TT‑BKHĐT (hiệu lực từ 1/7/2023) tiếp tục cập nhật quy trình đăng ký, khắc phục trùng lặp mã số kinh doanh và mã số thuế – đánh dấu bước tiến mới trong việc số hóa quản lý hộ kinh doanh tại Việt Nam. Và năm 2025 đánh dấu một bước chuyển mình rất mạnh mẽ đối với mô hình Hộ kinh doanh khi đồng loạt ban hành các văn bản pháp luật nhằm thay đổi luật chơi.

  1. Nghị định 70/2025/NĐ-CP (hiệu lực từ 1/6/2025)
    Hộ kinh doanh có doanh thu từ 1 tỷ đồng/năm bắt buộc sử dụng hóa đơn điện tử qua máy tính tiền, kết nối trực tiếp với cơ quan thuế.
    Điểm mới: hóa đơn sai sót được điều chỉnh, không còn bị hủy như trước.
  2. Luật Bảo hiểm Xã hội 2024 (áp dụng từ 1/7/2025)
    Chủ hộ kinh doanh có đăng ký bắt buộc tham gia bảo hiểm xã hội.
    Mức đóng tối thiểu khoảng 585.000 đồng/tháng, điều chỉnh theo thu nhập thực tế.
  3. Nghị quyết 198/2025/QH15 (hiệu lực từ 1/1/2026)
    Bãi bỏ hoàn toàn thuế khoánlệ phí môn bài. Hộ kinh doanh sẽ chuyển sang tự kê khai và nộp thuế theo phương pháp kê khai, thay vì áp dụng mức khoán như trước đây.
  4. Nghị định 168/2025/NĐ-CP (hiệu lực từ 1/7/2025)
    Thay thế Nghị định 01/2021/NĐ‑CP, quy định đầy đủ về thủ tục, hồ sơ, đăng ký hộ kinh doanh.
    Lần đầu tiên thể hiện rõ tính liên thông giữa hệ thống đăng ký hộ kinh doanh và doanh nghiệp – chuẩn hóa quy trình hành chính.
  5. Nghị định 125/2025/NĐ-CP (hiệu lực từ 1/7/2025)
    Từ thời điểm này, đăng ký hộ kinh doanh được chuyển về cấp xã thay vì cấp huyện như trước. UBND xã sẽ trực tiếp cấp giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh.
  6. Nghị định 117/2025/NĐ-CP (hiệu lực từ 1/7/2025)
    Các sàn TMĐT như Shopee, Lazada… nếu có chức năng thanh toán sẽ khấu trừ và nộp thuế VAT, TNCN thay cho hộ kinh doanh khi giao dịch hoàn tất.
    Nếu hộ kinh doanh không qua sàn có tích hợp thanh toán, họ tự kê khai và nộp thuế điện tử.
  7. Thông tư 40/2025/TT-BTC (hiệu lực từ 1/7/2025)
    Hướng dẫn cách tính thuế GTGT và thuế TNCN cho hộ kinh doanh. Bản cập nhật này sửa đổi Thông tư 40/2021/TT-BTC nhằm tăng minh bạch và công bằng trong cách áp thuế.

Tất cả các nghị định, thông tư hay nghị quyết nhằm chấn chỉnh hộ kinh doanh đều rất hợp lý, tạo sân chơi công bằng cho mọi thành phần kinh doanh, chống buôn lậu, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Tuy nhiên khi áp dụng vào sàn TMĐT thì câu chuyện trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Đơn cử như trường hợp xuất hóa đơn điện tử. Thời điểm xuất hóa đơn điện tử theo quy định hiện hành (Nghị định 70/2025/NĐ-CP), từ ngày 1/6/2025, Nghị định 70/2025/NĐ‑CP chính thức có hiệu lực, sửa đổi nhiều nội dung trong Nghị định 123/2020/NĐ‑CP, đặc biệt là về thời điểm lập hóa đơn: là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa cho người mua, bất kể đã thu tiền hay chưa. Trên thực tế, theo quy định của sàn TMĐT (có thể thay đổi trong tương lai), đó là khách hàng có thể giữ hàng hóa trong 15 ngày và trả lại cho nhà bán hàng mà không mất chi phí nào. Như vậy, trong 15 ngày này có phải là nhà bán hàng đã chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa cho người mua? Hay thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng được tính từ lúc phát sinh đơn hàng? Rõ ràng, nếu không có sự hợp tác đầy đủ và kịp thời của sàn TMĐT thì không có nhà bán hàng nào có thể thực hiện được đầy đủ trách nhiệm pháp lý theo quy định của cơ quan quản lý. Khi xuất hóa đơn, tất nhiên xảy ra 2 trường hợp, người mua không có nhu cầu xuất hóa đơn hoặc có nhu cầu xuất hóa đơn ở một thời điểm trong tương lai chưa xác định. Như vậy, nếu nhà bán hàng đã xuất hóa đơn ở dạng không có thông tin người mua hàng, và sau đó người mua hàng lại liên lạc để mong muốn có hóa đơn thì người bán hàng phải hủy hóa đơn trước và lập hóa đơn mới. Vấn đề thứ 2 là số tiền xuất hóa đơn. Số tiền người mua thanh toán không phải là số tiền xuất hóa đơn mà số tiền người bán nhận được cũng không phải số tiền xuất hóa đơn. Bởi vì trong hợp đồng mua bán giữa người mua và người bán trên sàn TMĐT luôn bao gồm chi phí của sàn TMĐT mà người bán phải trả cho sàn, cũng như số tiền mà sàn TMĐT trợ giá hoặc ưu đãi cho người mua. Chúng ta thử nhìn chi tiết vào một bảng kê các khoản của một đơn hàng mà người mua nhận được từ sàn Shopee.

Hãy để ý tới chú thích của phần Doanh thu đơn hàng. Như vậy là doanh thu thực tế của đơn hàng này chỉ được tính chính xác sau khi đơn hàng đã hoàn tất. Vậy trạng thái đơn hàng hoàn tất là trạng thái nào? Có phải là sau khi khách hàng nhận được hàng thành công, hay sau khi khách hàng đã nhận hàng 15 ngày, hay sau khi khách hàng hủy đơn… có rất nhiều khả thể cho trạng thái hoàn tất.

Vậy Shop sẽ cần xuất hóa đơn theo số tiền nào? Nếu chúng ta kéo xuống phần người mua thì sẽ lại thấy thông tin khác:

Số tiền trên hóa đơn không phải là số tiền shop nhận được (893.587đ), cũng không phải số tiền khách trả (984.200đ), mà là con số khác, được tính bằng tổng tiền sản phẩm (1.153.000đ) (tức là giá niêm yết kèm theo các mức giảm giá nếu có), trừ đi các Mã giảm giá của Shop (34.590đ), tức là (1.118.410đ). Nếu không có các phần mềm hỗ trợ như Sapo, Kiot, Nhanh, Viettel… để xử lý hóa đơn máy tính tiền thì công việc của nhà bán hàng rất lích kích và dễ sai sót. Và khi dùng các hệ thống máy tính tiền và xuất hóa đơn tự động thì phải trả phí và chấp nhận sự sai sót, độ ổn định của hệ thống.

Trên hình là hóa đơn bán hàng của Sapo và ở dưới là hóa đơn VAT tương ứng cho đơn hàng Shopee ở trên.

Với trình độ toán mặt bằng chung của các hộ kinh doanh trên sàn TMĐT, họ sẽ khó sử dụng thuần thục các phần mềm hóa đơn điện tử dẫn đến việc ngại ngần trong việc đầu tư một khoản để thực hiện thao tác này. Và nếu chúng ta muốn xây dựng một môi trường kinh doanh có tính bao trùm và nuôi dưỡng, trước hết cơ quan quản lý cần nắm thật rõ cách thức hoạt động của sàn TMĐT để phân loại các hộ kinh doanh, để có thể có cơ chế hỗ trợ và đối xử phù hợp trên tinh thần các đơn vị đã mạnh và lợi nhuận cao cần đóng góp đầy đủ, còn các đơn vị mới và quá nhỏ thì cần cho thêm thời gian để họ có thể cải thiện năng lực dần dần. Mối quan hệ 5 bên: cơ quan quản lý – sàn TMĐT – nhà bán hàng – shipper – người mua hàng cần được nuôi dưỡng một cách hài hòa, gia tăng sự minh bạch, phối hợp và cùng hỗ trợ nhau để có thể hình thành nên một môi trường giao thương lành mạnh và bền vững.

Gợi ý cho một môi trường TMĐT lành mạnh

Để xây dựng một môi trường TMĐT lành mạnh, chúng ta cần xác định rõ mối quan hệ giữa từng bên với nhau, giữa nền tảng công nghệ (sàn TMĐT, ứng dụng gọi xe…) với shipper, giữa nền tảng công nghệ với khách hàng,…

Để đi vào chi tiết, chúng ta có thể lập bảng như sau:

Nền tảng TMĐT Cơ quan quản lý Shipper Nhà bán hàng Người mua hàng/dịch vụ
Nền tảng TMĐT x 1 2 3 4
Cơ quan quản lý 5 x 6 7 8
Shipper 9 x 10 11
Nhà bán hàng 12 13 14 x 15
Người mua hàng/dịch vụ 16 17 18 19 x

Chúng ta có tổng cộng 19 mối quan hệ song phương, và cần đi vào chi tiết từng mối quan hệ này. Tôi xin được trích dẫn một số cách giải quyết gần đây của các khu vực trên thế giới về mối quan hệ giữa Nền tảng TMĐT – Shipper.

Tại cả Hoa Kỳ và châu Âu, các nhà lập pháp và hành pháp đều đang phải đối mặt với vấn đề liệu nên phân loại người lao động trong nền kinh tế chia sẻ là nhà thầu độc lập hay nhân viên. Tương tự như Trung Quốc, các công ty công nghệ trong các khu vực pháp lý này đã ra sức chống lại các kiện cáo và luật phân loại những lao động này là nhân viên công ty. Bất chấp các hoạt động vận động hành lang mạnh mẽ từ các công ty công nghệ lớn, các nhà lập pháp Hoa Kỳ và châu Âu đã đạt tiến bộ liên tục trong việc phát triển bộ quy tắc chuyên biệt giúp tăng cường bảo vệ người lao động trên các nền tảng. Các diễn biến chính sách này đã truyền cảm hứng cho các nhà quản lý Trung Quốc, những người cũng đang gây áp lực tương tự lên các công ty công nghệ Trung Quốc để cải thiện bảo vệ người lao động trên các nền tảng. Tại Hoa Kỳ, các nền tảng trực tuyến và người làm việc tự do đã vướng vào cuộc chiến pháp lý kéo dài về tình trạng lao động của họ trong nhiều năm. Ở cấp tiểu bang, các công ty gọi xe như Uber và Lyft đã đối mặt với nhiều vụ tranh tụng cáo buộc việc họ phân loại tài xế là nhà thầu độc lập thay vì nhân viên là sai trái. Cho đến nay, nhiều thách thức pháp lý tương tự đã được giải quyết hoà giải ngoài toà, ngăn cản các tòa án đưa ra phán quyết dứt khoát về vấn đề này. Ví dụ, năm 2016, Uber đã giàn xếp hoà giải với khoản bồi thường khoảng 100 triệu USD trong một vụ kiện với 400.000 tài xế ở California và Massachusetts trước khi đến phiên xét xử. Tuy nhiên, tòa án đã từ chối đề xuất hoà giải với lý do không đủ để bồi thường cho các tài xế. Năm 2020, một tòa án liên bang ở New York đã phán quyết rằng các tài xế Uber có thể được đối xử như các nhân viên đủ điều kiện nhận trợ cấp thất nghiệp theo luật. Bang Massachusetts cũng đã kiện Uber và Lyft vì phân loại sai tài xế là nhà thầu độc lập thay vì nhân viên. Tương tự các quốc gia khác, tòa án Hoa Kỳ đã áp dụng một số hình thức kiểm tra “kiểm soát” để xác định tình trạng nhân viên. Có ba bài kiểm tra chính: bao gồm kiểm tra kiểm soát theo luật chung, kiểm tra ABC, và kiểm tra thực tế kinh tế, tất cả đều kiểm tra mức độ mà công ty có quyền kiểm soát cách thức và phương tiện mà người lao động cung cấp các dịch vụ của họ. Mặc dù bài kiểm tra kiểm soát tương đối dễ hiểu trong quan hệ lao động truyền thống, sự xuất hiện của quản lý thuật toán đã làm mờ ranh giới giữa nhân viên và nhà thầu độc lập. Trong số các bài kiểm tra này, bài kiểm tra ABC là có lợi nhất cho nhân viên nền tảng, vì nó thiết lập cơ sở giả định về mối quan hệ lao động, chỉ có thể bác bỏ khi chủ lao động có thể chứng minh rằng người lao động không chịu sự kiểm soát và chỉ đạo của họ, công việc không phải là một phần thiết yếu của doanh nghiệp, và người lao động được tự do tham gia vào các công việc ngoài lề, không liên quan. Tiêu chí thứ hai của bài kiểm tra ABC khiến nhiều nền tảng gần như không thể chứng minh được các hoạt động của người lao động không thuộc về năng lực cốt lõi của công ty. Ngoài các phán quyết của tòa án, nhiều cơ quan lập pháp tiểu bang đã có hành động để giải quyết việc phân loại sai người lao động. Vào năm 2019, California thông qua AB5, một dự luật kết hợp bài kiểm tra phân loại công nhân ABC vào luật tiểu bang, cản trở các chủ lao động phân loại người lao động là các nhà thầu độc lập. Các công ty như Uber và Lyft đã chi hàng chục triệu đô la cho một chiến dịch quyết liệt để lật đổ AB5 bằng cách giới thiệu Đề xuất 22, tìm cách miễn trừ các công ty gọi xe khỏi bài kiểm tra ABC. Mặc dù đề xuất đã được thông qua với 59% phiếu bầu, Tòa án Cấp cao California tuyên bố Đề xuất này không hợp hiến và không thể thi hành. Phán quyết này đã bị kháng cáo ngay lập tức và vẫn đang chờ xét xử. Uber và Lyft đã phát động một chiến dịch tương tự ở Massachusetts, nhưng nỗ lực của họ đã bị ngăn chặn khi một tòa án tiểu bang cho rằng các phiếu bầu đề xuất của họ vi phạm luật tiểu bang. Trong khi đó, các công ty gọi xe đã thương lượng một thỏa thuận với các lái xe ở Washington, cung cấp một bộ các lợi ích được đảm bảo cho người lao động trong khi vẫn duy trì trạng thái nhà thầu độc lập của mình. Các dự luật tương tự đã được đề xuất ở New Jersey, Pennsylvania, Vermont và Wisconsin. Ở cấp liên bang, chính quyền Biden đã có tiến bộ vào năm 2022 khi Bộ Lao động giới thiệu một quy tắc mới, khiến cho việc phân loại lao động làm nhà thầu độc lập trở nên khó khăn hơn, nhằm kết thúc thực tiễn lạm dụng phân loại sai người lao động. Quy tắc này đã thay thế một chính sách của chính quyền Trump vốn cho phép người lao động được coi là nhà thầu độc lập nếu họ sở hữu doanh nghiệp của mình hoặc có thể làm việc cho các công ty cạnh tranh. Giống như Hoa Kỳ, hầu hết các quốc gia châu Âu áp dụng một số hình thức kiểm tra kiểm soát để xác định các mối quan hệ lao động. Một số quốc gia châu Âu đã đặc biệt tích cực trong việc tăng cường bảo vệ người lao động cho những người làm việc theo hợp đồng thời vụ. Vào năm 2021, Tòa án Tối cao Vương quốc Anh đã phán quyết rằng các tài xế của Uber nên được phân loại là người lao động thay vì là nhà thầu độc lập. Cách phân loại này mang lại cho tài xế một số quyền lao động nhất định, chẳng hạn như lương tối thiểu và tiền lương ngày nghỉ, nhưng không cung cấp đầy đủ các quyền lao động tại Vương quốc Anh. Các tòa án Pháp cũng đã ban hành một loạt các phán quyết có lợi cho những người lao động tự do. Năm 2020, tòa án cấp cao của Pháp phân loại một tài xế Uber là một nhân viên. Năm 2022, Tòa án Hình sự Pháp đã kết án Deliveroo về các công việc bị ẩn giấu. Một tòa án Paris cũng ra lệnh cho nền tảng này phải hoàn trả 10 triệu EUR thành các khoản thanh toán xã hội vào năm 2022. Ngoài ra, chính phủ Pháp đã thông qua một đơn sắc lệnh vào năm 2021 nhằm thiết lập một hệ thống đại diện tập thể cho những người lao động độc lập trong nền kinh tế kỹ thuật số. Tại Tây Ban Nha, Tòa án Tối cao đã ra phán quyết chống lại một công ty giao hàng có tên là Glovo vào năm 2020 vì phân loại sai tài xế của mình là nhà thầu thay vì nhân viên. Glovo đã bị phạt 79 triệu EUR vào năm 2022 và thêm 57 triệu EUR vào năm 2023. Trong một động thái quan trọng, chính phủ Tây Ban Nha đã pháp điển hóa quyết định của Glovo và thông qua Luật Tài Xế vào tháng 5/2021. Luật mới này giả định rằng nhân viên giao hàng là nhân viên nếu họ hoạt động dưới sự tổ chức, chỉ đạo và kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp của một nền tảng kỹ thuật số sử dụng các thuật toán để quản lý dịch vụ hoặc các điều kiện lao động. Đáp lại sự thay đổi lập pháp này, Deliveroo đã hoàn toàn rời khỏi thị trường Tây Ban Nha, trong khi UberEats đã chọn cách sử dụng hợp đồng phụ cho nhân viên của họ, một cách làm có thể bị kiện vì dường như đang lách luật. Các nhà chức trách Ý cũng đã có hành động chống lại các công ty giao hàng thực phẩm. Vào tháng 2 năm 2021, công tố viên Milan đã phạt nhiều công ty giao hàng thực phẩm gần 733 triệu EUR vì phân loại sai nhân viên và buộc các công ty này thuê toàn bộ 60.000 nhân viên giao hàng thành những nhân viên “giả thuộc cấp” với các quyền lao động hạn chế trong vòng 90 ngày.”

(Trích trang 315-317, Trung Quốc quản lý Big Tech và Nền kinh tế như thế nào)

Tóm lại, để quản lý sàn TMĐT thật tốt, không chỉ sử dụng các nghiệp vụ tài chính, hay quản lý hàng hóa, mà cần một người thực sự hiểu về TMĐT. Chúng ta cần thay đổi tư duy, không coi sàn TMĐT chỉ đơn giản là một nền tảng mua bán mà phải luôn nhớ rằng đó là một cái chợ, và trong một cái chợ, con người mới là yếu tố chủ chốt. Điều đó đồng nghĩa với việc đừng để những phép toán về thuế, về doanh thu… làm nản lòng những cá nhân trong hệ sinh thái TMĐT. Đã đến lúc các sàn TMĐT và các nhà quản lý cần tư duy theo mối quan hệ con người với con người, con người với công cụ, con người với hàng hóa để điều tiết quyền lợi và trách nhiệm của các bên tốt hơn và tránh những hành vi gian dối, xây dựng được quy trình làm việc bền vững hơn thay vì hạn chế quyền lợi của người này để bồi đắp cho người khác.

Lê Duy Nam

Sàn thương mại điện tử & chiến lược thúc đẩy thị trường sách sai lầm từ trường hợp của TIKI

Trước hết, tôi muốn nói lời cảm ơn với những website thương mại điện tử đã khai mở thị trường và huấn luyện những độc giả Việt Nam cách mua hàng online từ khi có Internet đến nay. Sự xuất hiện của các website thương mại điện tử thời kỳ đầu như Vinabook, TIKI đã góp phần hạn chế sách lậu, và hơn cả thế, thúc đẩy lực mua sách toàn quốc. Không còn cảnh những người ở vùng cao phải trèo đèo lội suối

Yuen Yuen Ang: Giảm nghèo – Chỉ thấy một cái cây mà quên mất cả khu rừng

ANN ARBOR - Giải Nobel Kinh tế năm 2019 được trao cho Abhijit Banerjee, Esther Duflo và Michael Kremer cho công trình của họ về phương pháp tiếp cận đói nghèo. Theo quan điểm của Hội đồng Nobel, ứng dụng của thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát (RCTs) trong kinh tế, một phương pháp lấy từ khoa học y tế, để kiểm tra xem liệu một sự can thiệp nhất định có thật là “tăng khả năng chống nghèo đói toàn cầu một cách

Yến Nhi

01/04/2023

Tổ chức World Cup để phát triển kinh tế ư? Không dễ dàng thế đâu!

Từng đấy chi tiêu cho World Cup vẫn không thể cải thiện đời sống của những người dân đều đặn nộp thuế . Gần đây, tin tức đã hé lộ rằng Sân vận động Arrowhead là một trong những nơi Hoa Kỳ chọn để tổ chức các trận đấu của giải FIFA Men’s World Cup vào năm 2026. Là một nhà kinh tế học và một người yêu mến thành phố Kansas, tôi không khỏi thất vọng trước tin này. Trong khi các chính trị

Yến Nhi

22/11/2022

[Phỏng vấn] Vaclav Smil: “Tăng trưởng phải kết thúc. Những người bạn kinh tế học của chúng ta dường như không nhận ra điều đó”

Nhà khoa học kiêm tác giả của cuốn sách - một anh hùng ca phân tích liên ngành về sự tăng trưởng - và tại sao sự mở rộng bất tận của nhân loại phải kết thúc. Vaclav Smil: "Mọi người hỏi tôi là một người tích cực hay tiêu cực, và tôi trả lời chẳng cái nào đúng." Nhiếp ảnh: David Lipnowski Vaclav Smil là một giáo sư xuất sắc tại khoa môi trường thuộc Đại học Manitoba ở Winnipeg, Canada. Trong hơn 40

Minh Tân

22/03/2022

BERTELSMANN – Ông trùm quyền lực của thế giới xuất bản, tập đoàn sở hữu Penguin Random House

Đối với hầu hết các khách hàng trên toàn thế giới của Bertelsmann, họ gần như chẳng có mấy ấn tượng về thương hiệu này. Tập đoàn Bertelsmann là cái tên nhạt nhòa trong mắt các độc giả đại chúng. Tuy nhiên, Bertelsmann lại sở hữu hàng loạt những thương hiệu đình đám nhất trong làng xuất bản và giáo dục thế giới mà nổi bật nhất có thể kể đến Penguin Random House, …  Tạp chí Der Spiegel từng có lần viết rằng Bertelsmann,
le-ai

Lê Ái

07/06/2024