Home Góc văn chương Lễ giỗ, cúng thần cây và người Thái “dịch chuyển”

Lễ giỗ, cúng thần cây và người Thái “dịch chuyển”

Hữu Vi

04/08/2025

Chú em họ con bà cô bảo tôi rằng sắp tới ngày giỗ bố và tính sẽ làm mấy mâm cơm để mời họ hàng và tưởng nhớ người quá cố. Tôi nghe có hơi ngạc nhiên. Chú ấy bảo khi còn sống, ông dượng tôi cũng có làm giỗ cho ông nội. Đã thành lệ, không bỏ được.

Lễ cúng giỗ thì có gì phải ngạc nhiên. Người ta vẫn hay bảo nhau sống tết chết giỗ là lệ thường mà. Tôi biết thế, nhưng đúng là có hơi ngạc nhiên.

Người Thái không ăn rằm tháng Bảy

Người Thái chúng tôi chẳng mấy ai làm lễ giỗ. Chỉ những dòng họ có nguồn gốc từ người Kinh thì mới có lệ này. Trước kia, vì nhiều lý do như trốn sưu thuế, chạy trốn sự truy sát của triều đình như dòng họ Trịnh, họ Mạc từng một thời mấy trăm năm làm chúa làm vua nay cũng có những chi, nhánh họ Trịnh, họ Mạc người Thái ở miền núi xứ Nghệ. Họ Nguyễn Cảnh mạn Diễn Châu, Đô Lương lên miền ngược cũng thành họ Nguyễn Cảnh, họ Vi người Thái ở Con Cuông… Khi đã sống cùng người bản địa qua vài thế hệ là… Thái hóa, tục lệ xưa cũ cũng dần phai nhạt. Người ta hầu như chỉ giữ lại dòng họ của mình, chưa kể một số cải sang họ người Thái, theo phong tục dân bản. Họ chỉ nhớ được nguồn gốc của mình từ những câu chuyện kể hoặc một số vẫn nhớ, chỉ là nhớ được gia phả mà chẳng còn mấy ai ghi chép. Còn chú em tôi làm giỗ cho cha vì trước đây nghe đâu gia đình có đi xem bói với ông thầy người Kinh. Ông này phán cần có lễ giỗ nên gia đình về làm và thành lệ. Người Thái có gốc Kinh thường giữ thói quen/học theo những tập tục người miền xuôi là ăn rằm tháng Bảy. Người Thái có tục ăn rằm tháng Sáu, tháng Bảy cũng chỉ ở một số địa phương như huyện Con Cuông (Nghệ An).

Những khảo sát của tôi trong bài viết nhỏ này chủ yếu tại các khu vực cư trú của người Thái ở Nghệ An. Theo các bậc cao niên thì người Thái ở Tây Bắc cũng không có lễ cúng giỗ và ngày này lại có trong tập quán của người Thái ở Nghệ An. Vào ngày tháng mà người thân mất (như ông, bà nội, cha, mẹ), người ta không làm những việc quan trọng như dựng nhà, cưới hỏi, thậm chí là xuống giống, gieo hạt. Vì đó là ngày thương đau, ngày buồn và người ta chỉ muốn nghỉ ngơi. Đó cũng có thể như là một cách người ta tưởng niệm, ghi nhớ về ngày mất của thân nhân. Tất cả chỉ có vậy mà không có lễ giỗ.

Người Thái “xịn” vốn dĩ cũng không ăn rằm tháng Bảy. Một bài viết về lịch của người Thái ở Nghệ An cũng như người Thái trên toàn quốc do Quán Vi Miên, một nhà nghiên cứu văn hóa bản địa là người Thái quê gốc huyện Quỳ Hợp (Nghệ An) thực hiện trước đây từng đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An năm 2014 cho thấy cộng đồng người Thái từng sử dụng một lịch riêng có nguồn gốc từ Myanmar. Lịch này cách âm lịch 6 tháng. Vì thế tháng 7 âm lịch trùng với tháng đầu tiên trong năm mới theo lịch Thái (lai nham). Bài viết cũng có nói rằng người Thái vốn dĩ cũng chẳng ăn Tết Nguyên Đán. Cộng đồng có những ngày hội riêng của mình là cúng bản, cúng mường.

Là tháng đầu tiên trong năm, đáng lẽ phải là tháng “ăn chơi” lễ hội. Trong lịch của người Thái, cũng có điều này, nhưng không nhiều. Một vài tài liệu có thể tìm thấy trên các báo mạng thì từ lâu cư dân người Thái ở Sơn La vẫn duy trì một lễ hội là tết “Xíp Xí” nghĩa là ngày 14. Tên gọi cũng là ngày làm lễ hội, vào 14 tháng 7 âm lịch và còn gọi là tết “trẻ con” vì là ngày lễ dành cho các em nhỏ. Đây có thể coi là lễ hội đầu tiên trong “năm mới” theo lịch cũ của người Thái.

Liên quan đến tết “Xíp Xí” có câu chuyện như sau: Khi mùa màng kết thúc, người lớn làm lễ “gác cày bừa” và được ăn uống no say trong khi trẻ con phải lên rừng thả trâu. Vì không được quan tâm nên bọn trẻ bàn nhau rọ mõm lũ nghé lại để chúng cũng chẳng được ăn uống gì. Khi lùa đàn trâu về người lớn mới hỏi vì sao trâu đực, trâu cái đều no căng mà bụng lũ nghé thì bị rọ mõm thế kia. Trẻ con mới văn lại: “Lễ gác cày bừa người lớn được ăn no mà trẻ con phải lên rừng chăn trâu. Trẻ con cũng như nghé con thôi, cũng cần ăn uống chứ. Nếu trẻ không được ăn thì bọn nghé cũng chẳng nên ăn làm gì.” Người lớn hiểu ra và từ đó lấy một ngày tết riêng cho trẻ em vào 14 tháng 7 âm lịch.

Truyền thuyết, giai thoại thường là cách giải thích những tập tục, các nét văn hóa, thậm chí là tên gọi những vùng đất. Điều này khá phổ biến với người Thái và bài viết sẽ còn dịp đề cập thêm những câu chuyện như thế trong phần sau. Với tết Xíp Xí, ngoài là dịp vui dành cho trẻ con thì người ta cũng có những lễ cúng cho thần linh mà món thịt vịt là thứ “không thể thiếu”.

Ông Cà Văn Chung, một người nghiên cứu văn hóa người Thái, trú tại TP. Sơn La chia sẻ thêm, với người Thái ở huyện Phù Yên (Sơn La), tết Xíp Xí chủ yếu dành cho trẻ con thì ở huyện Quỳnh Nhai (Sơn La) hay người Thái Đen ở các tỉnh như Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái (vùng Mường Lò, Nghĩa Lộ), tết Xíp Xí lại là lễ hội lớn.

Tục “kiêng trời” và mùa hội hè tháng Tám

Ấy thế mà với người Thái ở Nghệ An, tháng 7 âm lịch là tháng kiêng kỵ. Người ta cũng không làm những việc quan trọng như làm nhà, cưới vợ vào dịp này. Người Thái ở huyện Con Cuông kiêng thắp đèn ở gian có bàn thờ gia tiên từ ngày 10 tháng 7 đến 10 tháng 8 âm lịch. Người ta cho rằng tháng này ma nhà đã về trời, không còn ở lại bảo vệ, cai quản ngôi nhà nên cần giữ yên lặng. Các thần linh cai quản nhà cửa, đất đai, bảo vệ con người sẽ trở lại vào tháng 8, lúc đó mới được thắp đèn. Tuy nhiên, từ khi huyện Cuông có điện lưới quốc gia vào năm 1995 vì nhu cầu thắp sáng cho căn nhà, nhiều nơi đã bỏ tập tục này.

Người Thái ở khu vực tây bắc tỉnh Nghệ An gọi tháng 7 âm lịch là tháng “cắm phạ”. Dịch nôm là “kiêng trời”. Ông Lương Bá Viện, một người nghiên cứu văn hóa người Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gọi là tháng để tang ông trời. Ông viện dẫn một bài ca dao nói rằng trời sinh ra vào tháng thứ 2 trong năm, theo lịch cũ của người Thái và chết đi vào tháng cuối năm. Người ta sẽ để tang ông trời trong tháng Giêng (lịch xưa, tức tháng 7 âm lịch). Khi ông trời sống lại, người trần sẽ tổ chức lễ hội. Đó là một cách giải thích đơn giản vì sao người Thái ở Nghệ An có nhiều lễ hội vào tháng 8 âm lịch.

Xã Tiên Kỳ, huyện Tân Kỳ là vùng giáp ranh với các huyện Anh Sơn, Quỳ Hợp và Con Cuông, nơi có thành Trà Lân từng xảy ra trận đánh lớn đầu tiên của nghĩa quân Lam Sơn vào năm 1424. Đây cũng là một trong những sự kiện được chính quyền địa phương lấy làm căn cứ cho lễ hội “Bươn Xao” (nghĩa tiếng Thái là ngày 20). Lễ hội bắt đầu được tổ chức ở quy mô lớn từ năm 2017 dựa trên tục lệ xưa của người Thái bản địa và việc người dân ăn mừng sau chiến thắng Trà Lân. Nhưng theo một số tài liệu dẫn lại Đại Việt sử ký toàn thư, trong đó có sách Địa chí huyện Tương Dương do Ninh Viết Giao biên soạn cho thấy trận công thành Trà Lân diễn ra vào mùa đông, tháng 11 năm Giáp Thìn (cuối 1424), sau thời điểm có lễ hội Bươn Xao hiện tại hơn 2 tháng. Phải chăng người dân tổ chức ăn mừng vào những năm sau và chọn một ngày ngẫu nhiên, ngày đẹp để làm lễ. Theo các sử liệu thì đến nửa năm 1425, nghĩa quân Lam Sơn đã chuyển hoạt động xuống vùng Đông Bắc Thanh Hóa – Nghệ An rồi tiến ra phía bắc.

Về phía người viết bài thì có một tư liệu từ những câu chuyện kể dân gian giải thích nguồn gốc của lễ hội và không liên quan nhiều đến hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn.

Xã Cam Lâm, huyện Con Cuông cách không xa Tiên Kỳ và các cộng đồng người Thái nơi đây cũng có lễ Bươn Xao. Ông Lương Văn Hoàn ở bản Bạch Sơn xã Cam Lâm cho rằng lễ hội liên quan đến một truyền thuyết như sau: Xưa kia có cô gái đẹp, dân bản gọi là nàng Đòi. Nhà có một đàn lợn con nhưng nàng chỉ chăm bẵm mỗi một chú lợn đực. Người nhà đùa rằng: “Cô định lấy nó làm chồng hay sao” nhưng nàng Đòi chỉ mỉm cười. Một ngày nọ chú lợn bỏ vào rừng, nàng Đòi chờ suốt nhiều ngày không thấy lợn trở về liền giả chết. Chú lợn về bàn với các thầy mo lên trời làm nhà cho nàng. Người Thái quan niệm khi người ta chết đi thì phải tiễn về trời. Trong khi đang làm nhà, một khúc cây rơi xuống cạnh chỗ nằm khiến nàng Đòi giật mình ngồi dậy. Ai cũng ngờ rằng nàng chết đi sống lại nên mở hội ăn mừng. Hôm đó đúng ngày 20 tháng 8 và thành lệ từ đó.

Khi tổ chức thành lễ hội lớn, chính quyền huyện Tân Kỳ đã dựa trên những tục lệ thờ cúng của địa phương như cúng gà cùng với một món làm từ gạo, thịt, nõn chuối và nhiều gia vị khác gói trong lá dong rồi đem hấp chín gọi là “mọc”. Ông Lao Văn Thành ở cách không xa trụ sở ủy ban xã Tiên Kỳ cho hay: Hội Bươn Xao vốn chỉ được các dòng họ, gia đình tổ chức trong nội tộc. Nhưng hầu như nhà nào cũng làm và diễn ra trong hai ngày 19 và 20 tháng 8 hằng năm. Gần đây, lễ hội mới được làm với quy mô lớn.

Hội Bươn Xao còn có một cách gọi khác là “cắm phạ” (tạm dịch nôm là “kiêng trời”). Ngoài xã Tiên Kỳ, xã Cam Lâm, Chi Khê (huyện Con Cuông), huyện Quỳ Châu làm sau 3 ngày. Đây cũng là dịp vui lớn trong năm của các làng bản. Có người ví lễ hội này quan trọng chẳng kém Tết Nguyên Đán.

Cũng trong tháng 8, người Thái ở mường Khủn Tinh nay là xã Châu Quang, huyện Quỳ Hợp (Nghệ An) có hội “Ky Mọc” (hội ăn mọc) vào ngày 20 tháng 8 âm lịch. Tương truyền, lễ hội liên quan đến tục thờ những người bản địa có công giúp nghĩa quân Lam Sơn trong thế kỷ 15 và được người dân suy tôn là anh hùng của cộng đồng. Vào ngày 15 tháng 8, người Thái ở xã Tri Lễ, huyện Quế Phong còn có lễ cúng mẹ trăng, nhưng không được tổ chức rộng rãi. Lễ chỉ diễn ra trong không khí dòng họ và ít được biết đến.

Một trong những lễ hội diễn ra trong lặng lẽ, không cờ quạt loa nhạc nhưng khá nhộn nhịp đó là lễ Pủ Xừa ở xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu. Những bản người Thái như Bua, Lầu, Hoa Tiến có lễ này. Vào sang 12 tháng 9 âm lịch. Ban quản lý bản mổ lợn cúng dưới một gốc cây cổ thụ gọi là cây “Pủ Xừa’tạm diễn giải là cái cây có thần linh cai quản bản mường trú ngụ. Dưới gốc cây thường có một am thờ nhỏ.

Bản Bua, nơi có hang Bua nổi tiếng ở Nghệ An thường có lễ hội vào tháng Giêng âm lịch là nơi tổ chức lễ Pủ Xừa lớn nhất. Trên ngọn đồi cạnh bản có cây thị cổ thụ là địa điểm làm lễ chung. Buổi sáng hôm làm lễ, ban quản lý bản mổ lợn cúng thần. Mâm lễ đặt cạnh gốc thị. Ngoài lợn, gà còn có một ché rượu cần, vải vóc. Các gia đình ở bản Bua cũng có mâm lễ riêng gồm gà, xôi, rượu, vải vóc. Gần đây, người đọc bài cúng là thầy mo có tên là Lữ Văn Dũng. Lời cúng khá đơn giản. Thầy cúng gọi những thần linh cai quản hồn vía người, đất đai nơi đây về hưởng lộc và cầu cho mưa thuận gió hòa, người và vật nuôi không bị bệnh dịch, làng bản yên vui.

Sau bài cúng, người dân lặng lẽ bưng các mâm lễ về nhà và không khí cuộc hội diễn ra tại làng bản. Ngày lễ thường có sự tham gia đại diện của chính quyền xã. Truyền thông cấp huyện cũng có đưa tin. Nhưng nhìn chung lễ này vẫn chưa biết đến rộng rãi như hội Hang Bua.

Có thể nói, với người Thái nói chung và người Thái ở Nghệ An nói riêng, từ tháng 7 âm lịch là thời điểm bắt đầu “mùa” lễ hội tâm linh. Đó là những lễ hội ít nhiều còn giữ được chất truyền thống, cổ xưa. Chuỗi những ngày hội vui này có thể kéo dài sang tháng 10 âm lịch. Lúc này lúa nương đã chín, người Thái cùng với người Khơ Mú ở các huyện Tương Dương, Kỳ Sơn cùng nhau làm lễ cúng rẫy trước khi gặt lúa. Lễ làm ngay trên nương. Không khí ngày hội diễn ra giữa rừng thẳm. Quả là những trải nghiệm thích thú. Nhưng người trải nghiệm phải biết trèo đèo lội suối. Ở bản, những nhà trỉa lúa rẫy luân phiên nhau làm lễ mừng lúa mới.

Khi người Thái “dịch chuyển”

Như đã nhắc ở phần đầu bài viết, người Thái từng không ăn Tết Nguyên Đán. Có lẽ, cũng như cộng đồng người H’Mông, Tết Nguyên Đán mới được “du nhập” từ những năm 1990 trở lại đây. Với người Thái thì sớm hơn nhiều. Có lẽ từ những năm 50, 60 thế kỷ trước, khi cộng đồng này chấm dứt cuộc sống du canh, du cư. Và cũng phải nói rằng, người Thái là dân tộc dễ tiếp thu những “cái mới”. Như chuyện chú em họ của tôi học theo người miền xuôi làm lễ giỗ cho cha vậy. Làm rồi thành ra vướng vào cái lệ không bỏ được nữa.

Người Thái cũng không có lễ giỗ như người Kinh. Điều này có thể giải thích từ quan niệm tâm linh của người Thái như thế này: Trong vòng đời của một con người thể hiện trong các bài cúng thì một cặp vợ chồng muốn có con phải lên trời xin một linh hồn về đầu thai. Khi chết đi người ta được tiễn về trời. Người chết về trời rồi không cần phải tưởng nhớ nữa. Có tưởng nhớ thì cũng chỉ là tình cảm của người sống thể hiện qua ngày kiêng kỵ. Từ khi sinh ra cho đến lúc chết về trời, người Thái trải qua vô số lễ cúng tâm linh. Lễ cúng vía tổ chức khi đứa trẻ chào đời được 7 ngày (người Thái ở Tương Dương). Cúng vía trong lễ đặt tên. Cúng vía khi ốm đau, khi đi đâu đó xa như vào lính hay học đại học. Cúng khi dựng vợ gả chồng. Cúng khi làm nhà mới hay khi có người thân qua đời. Một giấc mơ lạ đến bất chợt cũng cúng. Chú bé nào đó được thầy mo phán là vía đi lạc cũng cúng gọi vía. Những lễ cúng bủa vây cuộc sống con người, nhưng lại vẽ ra khá đầy đủ, cụ thể thế giới tâm linh, đó là những tầng, những mường từ trần gian lên thiên giới. Rõ nhất là trong hội Xăng Khan thường kéo dài 2 ngày 1 đêm. Nó tái hiện gần như đầy đủ cuộc sống con người khi linh hồn từ trời về đầu thai làm người cho đến lúc chết đi được đưa tiễn về trời. Cả chuyện trỉa rẫy, chuyện sinh hoạt vợ chồng, sinh con đẻ cái…

Ngày nay, cộng đồng người Thái sinh sống khắp nơi. Kể cả những đô thị lớn nhất ở Việt Nam cũng có “làng”, có hội nhóm của người Thái. Cộng đồng này ít nhiều đã chịu ảnh hưởng từ nền văn hóa chung và phong tục cũng có biến đổi. Ngay cả các lễ hội truyền thống được tổ chức linh đình với cờ quạt, truyền thông như hội Hàng Bua, Đền Vạn, đền Chín Gian… của người Thái ở Nghệ An đều nhiều phần giống nhau. Kịch bản cũng có những lễ như khai quang, yết cáo, lễ tạ… như các lễ hội ở đồng bằng Bắc Bộ. Cái riêng như đã nói đến ở lễ Pủ Xừa hay các lễ tâm linh cũ khác đã lùi lại cho “cái chung”, sự hội nhập, hòa nhập.

Có sự tiếc nuối và cũng có sự tiếp nhận. Như cộng đồng người Thái ở Con Cuông cũng ăn rằm tháng Bảy. Hay như người chú họ của tôi đã tiếp nhận lễ cúng giỗ như là cách để tưởng nhớ những người thân đã khuất. Đó là điều bình thường trên dòng chảy của các loại hình văn hóa.

Thay lời kết, xin mượn ý tưởng từ một triển lãm của các bạn họa sỹ người Nam Định diễn ra tại Hà Nội gần đây: Ý tưởng trong các bức tranh nói về sự dịch chuyển của những cư dân “tỉnh lẻ” đến với các đô thị lớn. Và người Thái cũng như các cộng đồng thiểu số khác cũng đang “dịch chuyển”. Cuộc dịch chuyển chưa từng thấy đang xảy ra ở đô thị và ngay trên làng bản của mình. Để diễn giải thêm về điều này chắc sẽ phải cần đến những bài viết dài hơi hơn thế này rất nhiều nữa.

Hữu Vi

Tìm hiểu thêm tác phẩm về văn hóa Thái của nhà văn Hữu Vi

Link đặt sách: Combo Thơ và Du ký của Hữu Vi – Book Hunter Lyceum

 

 

Một ngày của Mế – theo chân một người phụ nữ Thái lên nương

Hãy theo chân một người phụ nữ Thái lên nương. Chỉ một ngày thôi, người ta sẽ có được bức tranh vẽ nên cả những kiếp người. Người Thái có câu ngạn ngữ đại ý rằng người vợ là vía của gia đình. Khi đã xong lễ tơ hồng trong ngày cưới thì vía của vợ gắn với chồng. Từ đó thành người đàn bà, thuộc về nhà chồng. Nhưng ngày nay thật khó nhận ra một phụ nữ Thái khi ra chốn đô hội,

Hữu Vi

16/10/2024