Lời giới thiệu của George MacDonald trong tuyển tập Công chúa nhẹ và những câu chuyện thần tiên khác (1983), sau được in lại trong tập tiểu luận A Dish of Orts (1984)
Vì lẽ không có từ tiếng Anh nào tương ứng với Maerchen trong tiếng Đức nên tiếng Anh gọi truyện cổ tích là Fairytale – truyện thần tiên – mặc cho câu chuyện có khi chẳng liên quan gì tới thần tiên cả. Tuy nhiên, ở đây ta có thể viện dẫn cách dùng xưa của từ fairy, ít nhất là theo cách Spenser dùng,1 nếu cần phải lấy lý do hay giải thích khi buộc phải làm vậy.
Nếu có ai hỏi tôi truyện thần tiên là gì, tôi sẽ trả lời, Hãy đọc Ondine: đó là truyện thần tiên; sau đó hãy đọc truyện này, truyện kia nữa, rồi sẽ thấy truyện thần tiên là gì. Nếu người ấy còn nài tôi mô tả cho bằng được truyện thần tiên, hay đưa ra định nghĩa, tôi đành trả lời thà rằng để tôi nghĩ cách mô tả khuôn mặt người trừu tượng hay nêu ra cái gì cấu thành con người còn hơn. Truyện thần tiên thì là truyện thần tiên thôi, cũng như khuôn mặt chỉ là khuôn mặt; và trong tất cả những truyện thần tiên tôi biết, thiết nghĩ Ondine là truyện đẹp hơn thảy.
Tuy nhiên, không ít người, dù chẳng cố công định nghĩa con người, vẫn có thể thử nói đôi điều xem một con người thì phải ra sao. Dẫu thế thì ở đây tôi sẽ không mạo muội làm tương tự cho truyện thần tiên, vì tác phẩm nhiều năm qua của tôi trong lĩnh vực này chỉ là ví dụ hay minh họa nghèo nàn so với nhận định chín chắn hơn của tôi bây giờ. Tôi chỉ xin nói đôi lời hữu ích cho việc đọc một cách đúng đắn những truyện thần tiên mà tôi muốn viết hay quan tâm đọc.
Một số người ưa suy tưởng sẽ thấy quá gò bó nếu không được tự do dùng dạng thức nào ngoài những gì vốn có trong tự nhiên, hay không được chế ra điều gì mà không tuân thủ quy luật của thế giới do giác quan nhận thức; nhưng đừng vì vậy mà ngỡ rằng họ muốn thoát ra khỏi phạm vi quy luật. Không gì vô luật lại có thể cho thấy dù chỉ một chút lý do để tồn tại, không gì vô luật dù giỏi đến mấy lại có được sự sống nhiều hơn cái vẻ ngoài.
Thế giới tự nhiên có quy luật riêng, không ai được can thiệp vào những quy luật đó dù bằng cách thể hiện hay bằng cách sử dụng; nhưng chính chúng lại có thể gợi ra những quy luật loại khác, và nếu thích, người ta có thể chế ra một thế giới nho nhỏ riêng mình, với quy luật của riêng nó; bởi trong họ có niềm vui thích khơi lên những dạng thức mới – có lẽ cũng là cách họ có thể tiến gần với sự sáng tạo nhất. Khi những dạng thức ấy là hiện thân mới cho các chân lý cũ, chúng ta gọi chúng là sản phẩm của Tưởng tượng [Imagination]; khi chúng chỉ là bịa tạc đơn thuần, thì dù yêu kiều đến đâu, tôi cũng sẽ gọi chúng là tác phẩm của Mơ tưởng [Fancy]: trong cả hai trường hợp, Quy luật đều cần mẫn vận hành.

Thế giới ấy một khi sáng chế ra rồi, quy luật tối cao tiếp theo sau đó ấn định: giữa các quy luật sẽ có sự hài hòa chi phối thế giới mới vừa tồn tại; và trong quá trình tạo dựng, nhà sáng chế kia phải giữ đúng những luật ấy. Chính giây phút lỡ quên mất quy luật nào đó, người ấy làm cho câu chuyện không còn khả tín, dựa trên chính những định đề của nó. Để sống được một chốc lát nào trong thế giới tưởng tượng, chúng ta phải thấy các quy luật tồn tại của nó được tuân thủ. Nhược bằng quy luật bị phá vỡ, ta văng ra khỏi đó. Trí tưởng tượng trong chúng ta – mà nhất thiết ta phải vận dụng để thuận theo trí tưởng tượng của người khác dù chỉ trong thoáng chốc – tức thời ngừng hoạt động một khi Quy luật mất dấu. Thử hình dung ở một vùng đất hồn nhiên nào đó trong xứ Thần tiên, các sinh vật nhã nhặn lại nói chuyện bằng giọng [bình dân] Cockney hay phương ngữ Gascon! Chẳng phải là câu chuyện, dù khởi đầu duyên dáng đến mấy, cũng sẽ lập tức sụt xuống tầm biếm nhại – thể văn kém giá trị hơn thảy hay sao? Những sáng chế có thể ngớ ngẩn, có thể thông minh, nhưng nếu người sáng chế không giữ đúng luật của chúng, hay nếu người ấy làm luật trước đá luật sau, thì người ấy tự xung đột với chính mình trên tư cách nhà sáng chế, người ấy nào đâu là nghệ sĩ. Người ấy không phối đúng nhạc cụ của mình, hoặc giả chơi chúng theo những tông sai nhau. Tâm trí con người là sản phẩm của Quy luật sống; nó suy nghĩ theo quy luật, nó cư ngụ giữa quy luật, từ quy luật nó gom góp trưởng thành; do đó, chỉ với quy luật nó mới có thể đạt bất kỳ thành quả nào. Những ý tưởng chõi lạc rồi sẽ nảy trong đầu thôi, nhưng nếu ráng dùng ý tưởng thế đó, tác phẩm của người ấy sẽ đâm nhạt nhẽo, người ấy đành bỏ dở chỉ vì mất hứng. Quy luật là mảnh đất duy nhất để cái mỹ sinh trưởng; mỹ là chất liệu duy nhất Chân có thể khoác lên mình; và nếu muốn, các bạn có thể gọi Tưởng tượng là người thợ cắt may y phục cho vừa vặn nàng Chân lý, còn Mơ tưởng là thợ phụ, ráp nối các mảnh lại với nhau hay cùng lắm giúp thùa khuyết áo. Tuân theo quy luật, người tác tạo làm việc giống như đấng hóa công; không tuân theo quy luật, người ấy chẳng khác gì kẻ ngốc chất một chồng đá rồi gọi đó là nhà thờ.
Trong thế giới đạo đức lại khác: ở đấy người ta có thể khoác lên những dạng thức mới, tự do sử dụng trí tưởng tượng làm việc đó, nhưng người ấy không được phép bịa tạc gì cả. Người ấy không được, vì bất kỳ mục đích gì, đảo lộn quy luật. Người ấy không được phép can thiệp vào mối quan hệ giữa các linh hồn sống. Quy luật của tinh thần con người phải giữ vững, trong thế giới này cũng như trong bất kỳ thế giới nào mà con người có thể sáng chế. Việc giả định một thế giới mà mọi thứ trong đó đẩy vạn vật xung quanh ra thay vì hút chúng lại thì đâu đã hại gì; nhưng cái độc địa là khi người ta viết ra câu chuyện miêu tả một kẻ nó gọi là tốt mà toàn làm điều xấu, hay một kẻ nó gọi là xấu mà toàn làm điều tốt: tự ý niệm này đã hoàn toàn vô luật. Trong những sự thuộc vật chất thì người ta có thể sáng chế; trong những sự thuộc đạo đức thì họ phải tuân theo – và mang quy luật của chúng cùng vào thế giới do mình sáng chế ra nữa.
– Ông viết như thể truyện cổ tích, thần tiên có gì quan trọng lắm: nó có nhất thiết mang ý nghĩa gì không?
Nó không khỏi có ý nghĩa nào đó; nếu nó cân đối và hài hòa thì nó có sức sống, mà sức sống là chân. Tính mỹ có thể rõ ràng trong nó hơn tính chân, nhưng nếu không có chân thì không thể có mỹ, truyện thần tiên sẽ không mang lại niềm vui. Tuy nhiên, tất cả mọi người khi cảm nhận câu chuyện sẽ đọc hiểu ý nghĩa của nó dựa theo bản tính và quá trình phát triển của riêng họ: người này đọc ra nghĩa thế này, người kia đọc ra nghĩa thế nọ.
– Nếu thế, làm sao tôi đảm bảo khi đọc, mình không gán cho nó ý của mình, mà hiểu đúng ý của ông?
Sao anh chị phải biết chắc? Có khi tự gán ý riêng của anh chị cho câu chuyện lại là điều tốt hơn. Có khi như thế mới là cách vận dụng trí tuệ ở cấp độ cao hơn so với chỉ hiểu theo ý của tôi: ý của anh chị có thể còn vượt trội ý tôi.
– Giả sử con tôi hỏi tôi truyện cổ tích này có ý nghĩa gì, tôi biết trả lời sao đây?
Nếu anh chị không biết nó có ý nghĩa gì, thì còn gì dễ cho bằng cứ nói thẳng ra? Nếu anh chị thấy được ý nghĩa trong đấy, thì anh chị cứ thế nói cho con. Một tác phẩm nghệ thuật đích thực phải đa nghĩa; nghệ thuật của nó càng chân thật, nó càng đa nghĩa hơn. Mặt khác, nếu bức hình tôi vẽ bị xa rời nghệ thuật đến nỗi cần chú thêm bên dưới: ĐÂY LÀ CON NGỰA, thì việc cả anh chị lẫn con anh chị đều không biết nó mang nghĩa gì có còn quan trọng hay không? Nó ở đó để đánh thức ý nghĩa hơn là truyền tải ý nghĩa. Nếu nó thậm chí còn không đánh thức chút quan tâm gì, thì cứ quẳng nó qua bên. Có thể có ý nghĩa ở đó đấy, nhưng nó không dành cho anh chị. Vả lại, ngộ nhỡ anh chị không biết con ngựa là gì cả khi nhìn thấy ngựa ngoài đời, thì cái chữ ngựa dẫu viết ngay bên dưới cũng sẽ chẳng ích gì cho anh chị. Dù sao đi nữa, họa sĩ không có nhiệm vụ dạy dỗ môn động vật học.
Nhưng thật tình, con cái khó mà làm phiền anh chị chuyện ý nghĩa nọ kia. Các cháu tìm thấy những gì các cháu có khả năng tìm thấy, thêm nữa sẽ là quá mức. Phần tôi, tôi không viết cho trẻ con, mà viết cho những người có tâm hồn trẻ thơ, dù năm tuổi, năm mươi, hay bảy mươi lăm tuổi.
Truyện thần tiên không phải là phúng dụ. Có thể có phúng dụ trong đó, nhưng bản thân nó thì không phải phúng dụ. Phải là một nghệ sĩ thực thụ thì bất kể đụng tới thể thức nào cũng có thể tạo ra phúng dụ chặt chẽ mà không làm tâm hồn mỏi mệt. Một phúng dụ nếu không tài tình thì ắt phải tàn tệ.
Một truyện thần tiên, như bướm hay ong, tự kiếm ăn cho mình ở khắp muôn phương, nhấp mật từ mọi đóa hoa tươi mà không làm hỏng đóa nào. Truyện thần tiên thực sự theo tôi rất giống một bản xô nát. Chúng ta ai cũng biết bản xô nát có ý nghĩa gì đó; khi có khả năng diễn đạt theo cách mơ hồ vừa phải và chọn ẩn dụ đủ lơi, thì tâm trí này có thể tiến gần tâm trí kia trong sự diễn giải bản nhạc, kết quả là một ý thức giao cảm làm người ta ít nhiều thỏa mãn. Nhưng nếu hai hay ba người ngồi xuống, mỗi người viết ra bản xô nát ấy có nghĩa gì với mình, thì kết quả sẽ ra gần sát với ý cụ thể đến đâu? Chút ít mà thôi – và cái chút ít đó còn hơn cả mức cần. Chúng ta sẽ thấy nó đã khơi dậy những cảm xúc nếu không đồng nhất thì cũng có liên hệ với nhau, nhưng hẳn không phải là một suy nghĩ chung. Bản xô nát có vì thế mà thất bại hay không? Nó có được tấu lên để truyền tải, hay có cần kỳ vọng nó truyền đạt một điều gì đó xác định, điều gì đó nhận dạng được bằng ý niệm hay không?
– Nhưng ngôn từ không phải âm nhạc; ngôn từ chí ít được định ra và phù hợp để mang ý nghĩa chuẩn xác!
Thật sự rất hiếm khi ngôn từ mang chính xác ý của bất kỳ người sử dụng nào! Và ngay cả khi chúng có thể dùng để truyền tải ý cụ thể, như thế cũng không có nghĩa chúng không bao giờ nên truyền đi điều gì khác. Ngôn từ là những thể sống có thể được dùng theo muôn vàn cách cho muôn vàn mục đích. Chúng có thể truyền tải dữ kiện khoa học, hay gieo bóng giấc mơ của đứa con lên trái tim người mẹ. Chúng là những thứ để ráp lại với nhau giống như các mảnh của một tấm bản đồ bị cắt rời, hay sắp lại như những nốt nhạc trên khuông. Có phải âm nhạc trong chúng chỉ vô ích hay không? Âm nhạc khó mà giúp ý nghĩa xác định hơn: có phải vì thế mà gạt bỏ nó? Chúng có chiều dài, chiều rộng, đường nét chung: chẳng lẽ chúng không có liên quan gì tới chiều sâu? Chẳng lẽ chúng chỉ để mô tả, mà không để in dấu lại bao giờ? Chẳng lẽ không gì có quyền dùng đến ngôn từ ngoài những gì mang tính xác định? Nguyên nhân một đứa trẻ rơi nước mắt có thể hoàn toàn không xác định được: chẳng lẽ vì vậy mà bà mẹ không có phương thuốc chi chữa cho nỗi khổ mơ hồ của con? Có thứ không mang đường nét rõ ràng song màu sắc lại đậm đà. Một câu chuyện thần tiên, một bản xô nát, một cơn bão đang kéo đến, một đêm tối vô biên, đều túm lấy anh chị, cuốn anh chị đi: anh chị có liền vật lộn với nó và hỏi quyền năng để nó tác động lên anh chị đến từ đâu, nó sẽ đưa anh chị đi đâu? Quy luật của từng cái đều nằm trong tâm trí chủ thể soạn tác ra nó; quy luật ấy làm cho người này cảm thấy thế này, người khác lại cảm thấy thế khác. Với người này bản xô nát là cả thế giới ngát hương đẹp đẽ, với người khác thì nó chỉ là cảm giác dịu ngọt. Với người này, mây cuồn cuộn có thể là một vũ điệu hoang dã chứa đựng nỗi kinh hoàng ở trung tâm; với người khác, đó là cuộc hành quân uy phong của thiên binh thiên tướng, với Chân lý ở chính giữa chỉ đường nhưng còn kìm giọng. Những sức mạnh to lớn nhất nằm trong miền của những gì ta chưa hiểu thấu.
Tôi sẽ còn dấn xa hơn: Điều tốt nhất anh chị có thể làm cho người khác, chỉ sau việc đánh thức lương tri người ấy, không phải là bày cho người ấy mấy điều để nghĩ ngợi, mà là thức những điều vốn có trong họ; hay nói cách khác, làm người ấy tự nghĩ điều này điều kia. Điều tốt nhất Tự nhiên làm cho chúng ta là đưa ta vào tâm trạng để nảy sinh những ý nghĩ trọng đại. Có khía cạnh nào của Tự nhiên chỉ đánh thức một ý nghĩ duy nhất hay không? Tự nhiên có bao giờ gợi chỉ một điều cụ thể hay không? Tự nhiên có làm hai người bất kỳ ở cùng một chỗ vào cùng một thời điểm nghĩ cùng một ý hay không? Có phải vì thế mà Tự nhiên thất bại không, vì Tự nhiên không cụ thể, xác định? Có phải việc Tự nhiên khơi lên thứ gì đó còn sâu hơn cả niệm năng – năng lực làm cơ sở cho suy nghĩ – lại chẳng là gì cả? Chẳng phải Tự nhiên thúc cho cảm xúc, và cả tư duy, hoạt động hay sao? Có tốt hơn không nếu Tự nhiên làm điều này chỉ bằng một cách chứ không phải bằng nhiều cách? Tự nhiên biết sản sinh tâm trạng, khơi gợi suy tư: bản xô nát, câu chuyện thần tiên chính là nên như vậy.
– Nhưng vậy người ta có thể tưởng tượng tùy thích trong tác phẩm của ông, những gì ông chẳng hề chủ ý!
Không phải tùy thích, mà tùy năng. Hễ người đã chẳng chân chính, thì dù gặp cái tối thiện cũng rút ra cái gian tà; chúng ta không cần bận tâm người ấy đối xử ra sao với bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào! Hễ người đã chân chính, thì người ấy sẽ tưởng tượng điều chân chính; thế thì có hề gì nếu tôi có chủ ý đó hay không? Những điều ấy ở đó, dù tôi không thể nhận đã đặt chúng vào đó! Tác phẩm của Chúa khác của người ở chỗ, trong khi tác phẩm của Chúa không thể mang nhiều nghĩa hơn những gì Chúa chủ định, thì tác phẩm của người phải mang nhiều nghĩa hơn những gì người chủ định. Bởi trong vạn vật do Chúa tạo ra, có từng lớp, từng lớp ý nghĩa tăng dần; Chúa cũng biểu đạt cùng một ý tưởng bằng những dạng ngày càng cao cấp hơn của ý tưởng ấy: chính những sự vật của Chúa, những ý tưởng đã thành hình của Chúa, là cái duy nhất người ta có để dùng, được điều chỉnh tương thích với mục đích của riêng người ấy, để người ấy diễn đạt nghĩ suy của họ; do đó người ấy không khỏi để ngôn từ và hình tượng của mình góp vào những tổ hợp trong tâm tưởng một ai đó khác, trong khi tự người ấy còn chưa dự kiến, bởi mọi ý tưởng đều dây với quá nhiều ý tưởng, mọi hình tượng đều hàm chứa quá nhiều mối quan hệ, mỗi biểu tượng đều ám chỉ quá nhiều dữ kiện. Người viết cũng có thể tự tìm ra chân lý trong những gì mình viết; bởi người ấy luôn phải xử lý những gì đến từ ý tưởng vượt ngoài suy tưởng của họ.
– Nhưng hẳn là ông chịu giải thích ý của ông cho người nào hỏi ông chứ?
Xin nhắc lại, nếu tôi vẽ ngựa không ra ngựa, thì tôi sẽ chẳng viết ĐÂY LÀ CON NGỰA bên dưới cái hình tôi đã dại dột định là nó. Bất kỳ chìa khóa nào để giải thích một tác phẩm đến từ trí tưởng tượng sẽ là điều gần như, nếu không muốn nói hoàn toàn, lố bịch hệt vậy. Câu chuyện ở đó không phải để giấu, mà để bày: nếu nó không bày ra gì bên ngoài song cửa sổ, thì anh chị đừng mở cửa chính đón nó làm gì; cứ để nó ngoài trời giá lạnh đi. Yêu cầu tôi giải thích, khác gì nói, “Hoa hồng à! Đem luộc cái đã, còn không chúng tôi chẳng nhận!” Câu chuyện của tôi có thể không phải hoa hồng, nhưng đời nào tôi lại đem chúng đi luộc.
Chừng nào tôi còn nghĩ con chó của mình có thể sủa, tôi sẽ không ngồi sủa thay cho nó.
Nếu người viết nhắm đến thuyết phục cho hợp logic, người đó phải không từ một nỗ lực luận lý nào, không chỉ để được hiểu, mà còn để tránh bị hiểu nhầm; còn nếu mục tiêu là lay động bằng cách gợi ý, là khơi lên tưởng tượng, thì hãy để người ấy đánh động tâm hồn độc giả cũng như cơn gió gẩy đàn Aeolian2. Nếu trong độc giả của tôi có âm nhạc, tôi sẽ rất mừng vui đánh thức. Hãy để câu chuyện thần tiên của tôi đuổi theo con đom đóm lúc lóe, lúc tắt, nhưng có thể còn lóe sáng lại. Rơi vào tay kẻ không yêu thương giống loài nó, con đom đóm sẽ biến thành thứ vật xấu xí tầm thường, không phát sáng mà cũng chẳng bay.
Với âm nhạc, theo tôi, tốt nhất không phải là thu hết trí lực để liên hệ với nó, mà là cứ tĩnh lặng, để nó tác động lên những gì trong chúng ta vốn là lý do cho nó tồn tại. Chính vì lòng tham trí tuệ mà ta phá hỏng vô vàn điều quý báu. Ai sẵn sàng làm một người đàn ông, mà không chịu làm đứa trẻ, thì nhất thiết – anh ta không sao tránh khỏi – phải thành một người bé nhỏ, tức một người lùn. Tuy vậy anh ta sẽ chẳng cần an ủi, vì chắc chắn anh ta sẽ tự cho mình là người kỳ vĩ lắm.
Nếu có bất kỳ khúc “nhạc lỡ dở” nào của tôi làm cho đôi mắt đứa trẻ bừng lên, hay mắt của mẹ nó nhòe đi trong chốc lát, thì công sức của tôi sẽ không đổ sông đổ bể.
———
Chú thích
- Fairy ngày nay thường được hiểu là một loại sinh vật tưởng tượng có phép thuật, hình người, có cánh, chẳng hạn nàng tiên Tinkerbell trong Peter Pan, tuy nhiên trong The Faerie Queene của Edmund Spenser (1552-1599), xứ sở fairyland dù vẫn có sinh vật thần kỳ sinh sống, nhưng chủ yếu được hiểu như một xứ huyền bí, đầy phép màu mê hoặc, mang tính tượng trưng (liên tưởng tới nước Anh của nữ hoàng Elizabeth)… từ đó ta có thể hiểu fairytale theo nghĩa “truyện thần kỳ” (thay vì truyện về loài tiên fairy).
- Đàn Aeolian, hay còn gọi là đàn hạc gió, được đặt theo tên thần gió Aeolius trong thần thoại Hy Lạp, là nhạc cụ dây phát ra âm thanh khi gió thổi qua, không cần người chơi. Tiếng nhạc này cũng xuất hiện trong đoạn cuối truyện Chiếc chìa khóa vàng của MacDonald.
Hồ Hồng Đăng dịch.

