Home Đọc Đạo đức trong quan niệm của Aristotle và Adam Smith

Đạo đức trong quan niệm của Aristotle và Adam Smith

le-nam

Lê Nam

22/10/2025

Cả Aristotle và Adam Smith đều hiểu luân lý theo những cách khiến họ khác biệt rõ rệt so với hầu hết các triết gia đạo đức khác. Thái độ của họ về cơ bản tương thích với nhau, và nhiều đánh giá của họ trùng khớp. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa Smith và Aristotle rất sâu sắc, phần lớn là do những giả định có tính hiện đại và sự hạn chế về nhận thức siêu hình học của Adam Smith.

Hãy xem xét những điểm tương đồng. Trái ngược với, chẳng hạn, Plato khắc khổ và Immanuel Kant cay nghiệt, cả Aristotle và Adam Smith đều có xu hướng thân thiện và nhạy cảm. Quan điểm tự nhiên của họ về đạo đức liên quan đến hành động của những cá nhân cụ thể hành động trong thế giới vật lý hàng ngày. Do đó, đạo đức theo quan điểm của họ ắt hẳn bao gồm sự phán đoán về cái cụ thể và cái khả thi.

Đối với cả Aristotle và Adam Smith, đơn vị then chốt là một cá nhân, chứ không phải một nhóm nào đó. Điều này trái ngược với, chẳng hạn, những người theo chủ nghĩa vị lợi, những người mà đề cao “hạnh phúc lớn nhất cho số đông nhất” ắt hẳn phải lấy các nhóm/cụm/tập hợp làm trung tâm. Hơn nữa, đối với cả Aristotle và Adam Smith, tác nhân đạo đức không phải là một detached intelligence (trí năng thuần lý – có khả năng nhận thức chân lý phổ quát, không lệ thuộc vào thân xác hay giác quan.) hay noumenal self (cái tôi siêu nghiệm, tự ngã thuộc vật tự thân – là một khái niệm trung tâm trong triết học của Immanuel Kant). Tác nhân đạo đức phải là một con người trong xã hội, không có xu hướng đơn độc (atomistic), và gắn kết với người khác bằng những sợi dây tình cảm và sự đồng cảm tự nhiên.

Aristotle và Adam Smith đều thừa nhận rằng những ham muốn của con người có vai trò tích cực trong đời sống đạo đức. Những đam mê không nên bị phủ nhận, mà cần được rèn luyện; chúng ta chịu trách nhiệm về mặt đạo đức đối với cả cảm xúc lẫn hành động của mình. Theo Aristotle, với một người tốt, bởi anh ta tốt, nên anh thấy niềm vui trong hành động xuất phát từ Phẩm hạnh, và thấy khó chịu với những hành động xuất phát từ Đồi bại, cũng như người nhạc công cảm thấy hài lòng với khúc nhạc đẹp, và thấy khó chịu với đoạn nhạc tệ hại. (Luân lý học, NXB Đà Nẵng & Book Hunter, 2024, trang 282).

  > Tìm hiểu thêm: Luân lý học – Aristotle – Book Hunter Lyceum 

Adam Smith đồng ý. Rằng làm điều đúng đắn mang lại niềm vui không nhất thiết làm mất đi tính chất đạo đức của hành động hay của người thực hiện. Cả Aristotle và Adam Smith đều hiểu rằng động cơ có thể đa dạng và hỗn tạp mà vẫn đáng được ghi nhận. Tuy nhiên, hai ông cũng nhận ra rằng ý định tốt không bao giờ là đủ. Kết quả cũng như động cơ đều quan trọng để đánh giá các tác nhân đạo đức.

Một điểm khác biệt nữa là sự chấp nhận chung của hai ông về những điều kiện thông thường trong thế giới ngẫu nhiên bình thường. Sự thiếu thốn về vật chất thường làm suy yếu hạnh phúc ngay cả đối với những người đức hạnh nhất. Bất bình đẳng và may rủi là những đặc điểm phổ biến cần được tính đến, chứ không phải loại bỏ. Điều đáng chú ý là sự thận trọng không đối lập với đức hạnh, mà là một phần quan trọng của nó. Mặc dù đạo đức có cognitive content (tạm dịch: hàm lượng lý trí/trí năng) nhưng nó không thể được diễn đạt bằng độ chính xác toán học hay được gói gọn trong những quy tắc bất biến.

Aristotle và Adam Smith thừa nhận rằng việc đạt được sự hoàn thiện về đạo đức là vô cùng khó khăn. Đối với cả hai ông, giáo dục đạo đức chủ yếu bao gồm việc phát triển những thói quen phù hợp. Sự hướng dẫn nhằm chấn chỉnh đạo đức thường được cung cấp bởi những người bạn chân chính theo tư tưởng của trường phái Aristotle, những người ‘tốt và giống nhau về đức hạnh‘, và bởi người quan sát công tâm theo lý thuyết của Adam Smith, người được mô tả như một kiểu bạn tưởng tượng.

Tuy nhiên, cơ sở cho lời khuyên của hai ông lại hoàn toàn khác: Smith thiếu một tiêu chuẩn khách quan về hành động đạo đức tương đương với tiêu chuẩn do thuyết mục đích luận tự nhiên của Aristotle đưa ra.

Đối với Aristotle, tri thức bao gồm việc hiểu sự vật theo cái mà truyền thống triết học lâu nay gọi là “bốn nguyên cứ”, đại diện cho bốn loại giải thích. Mọi thứ đều có một nguyên cứ vật chất, thứ tạo nên nó, và một nguyên cứ tác động, nguồn gốc của biến dịch đưa nó tới hiện hữu. Ít quen thuộc hơn, nhưng vô cùng quan trọng, là nguyên cứ hình thức hay tự tính (essence), “cái nó là”. Tự tính của một sự vật vừa cấu thành bản sắc của nó, vừa giải thích các thuộc tính của nó. Tự tính được lý trí lĩnh hội thông qua một loại quy nạp từ các chi tiết. Tương tự như vậy, nguyên cứ thứ tư hay cuối cùng của một sự vật, telos (nguyên cứ mục đích) của nó, “vì cái ấy mà nó tồn tại”. Theo Aristotle, mọi vật thể, nghệ thuật và sự theo đuổi đều có một telos, tức là một mục tiêu, mục đích hoặc điểm cuối có thể được khám phá thông qua lý trí. Mỗi thứ cũng có một ergon, chức năng, hoạt động đặc trưng hoặc sản phẩm riêng của nó, thường là việc đạt được mục đích riêng biệt của nó. Đức hạnh, arete, bao gồm việc thực hiện xuất sắc chức năng đó. Chức năng của Con Người là đảm bảo hoạt động của Tâm Hồn trong sự phù hợp với Lý Trí, hoặc chí ít là không độc lập khỏi Lý Trí‘ (Luân lý học, NXB Đà Nẵng, 2024, trang 50). Phẩm hạnh đạo đức là

“một trạng thái có khả năng đưa ra lựa chọn thận trọng, trong sự Trung đạo tương đối, được xác định bằng lý trí, và sẽ do một người thật thông thái thực hiện”. (Luân lý học, NXB Đà Nẵng, 2024, trang 75)

Người thận trọng còn được gọi là ‘người có phẩm hạnh’ và ‘người có trí tuệ thực tiễn’. Phẩm hạnh đạo đức là thói quen lựa chọn hành động hoặc phản ứng cảm xúc đúng đắn được xác định bởi lý trí, như người thận trọng sẽ làm.

Điều đúng đắn thường rơi vào mức độ không quá nhiều và cũng không quá ít: ví dụ, đức tính can đảm được coi là trung đạo giữa tính hèn nhát và tính liều lĩnh. Mặc dù thường được coi là cốt lõi của lý thuyết phẩm hạnh đạo đức Aristotle, ‘học thuyết về Trung đạo’ này thường bị hiểu lầm. Nó không phải là tất cả: không có một mức độ chấp nhận được nào cho những điều tự thân đã là xấu, ví dụ như ác ý đố kỵ, trộm cắp giết người. Hơn nữa, ngay cả khi một mức độ trung đạo có thể mang tính đạo đức, việc lựa chọn mức độ trung đạo đó không phải là bằng chứng của sự nửa vời, thờ ơ, tầm thường hay thiếu nghiêm cẩn. Xét về ‘phẩm hạnh và sự đúng đắn… chính nó lại rơi vào một dạng cực đoan’ (Luân lý học, NXB Đà Nẵng, 2024, trang 75).

Trung đạo không phải là kết quả của một phép tính số học, và không dễ để nhận ra. Nó đòi hỏi lý trí dưới dạng trí tuệ thực tiễn để cân bằng các chi tiết cụ thể của tình huống và đánh giá các lựa chọn khả thi liên quan đến mục đích đúng đắn của con người. Các lựa chọn được coi là phù hợp về mặt đạo đức chừng nào chúng thể hiện hoặc đóng góp vào mục đích khách quan, mà đối với con người bao gồm việc sống phù hợp với sự phát triển đầy đủ nhất của trí năng. Người có đức hạnh thường xác định điều đúng đắn cần làm và đưa ra lựa chọn đúng đắn một cách nhất quán. Hơn nữa, họ sẽ làm như vậy đúng cách, đúng thời điểm và vì lý do đúng đắn. Theo đó, hành vi của họ có thể trở thành tấm gương cho người khác và góp phần giáo dục đạo đức cho người khác. Việc quan sát họ sẽ giúp người khác học cách hành xử có đạo đức, cũng như việc nghiên cứu một bậc thầy có thể giúp các nhạc sĩ học cách chơi nhạc cụ của họ.

Mặc dù người có đức hạnh là tấm gương, nhưng điều khiến lựa chọn của họ trở nên đúng đắn về mặt đạo đức không phải là bất kỳ cảm xúc hay quan điểm nào của họ cho rằng nó đúng đắn. X không phải là lựa chọn đúng đắn vì nó được người có đức hạnh lựa chọn; Ngược lại, người có đức hạnh chọn X vì nó đúng, vì nó dẫn đến việc hiện thực hóa mục đích sống của con người. Việc đề cập đến một tiêu chuẩn khách quan, không phụ thuộc vào tâm trí chính là cách luân lý học Aristotle tránh được sự luẩn quẩn thường gắn liền với ‘đạo đức học đức hạnh’, vì những người ủng hộ nó né tránh siêu hình học Aristotle.

> Tìm hiểu thêm: Siêu hình học – Aristotle – Book Hunter Lyceum

Siêu hình học Aristotle hỗ trợ một sự hiểu biết sâu sắc hơn nhiều về lý trí so với Adam Smith. Theo Aristotle, lý trí là đặc điểm thiết yếu của một cuộc sống đúng nghĩa con người. Lý trí nắm bắt mục đích sống của con người và tạo nên một phần mục đích đặc trưng của con người. Lý trí đánh giá điều gì dẫn đến việc đạt được mục đích sống tốt nhất; lý trí là cần thiết để hành động có đạo đức. Ngược lại, đối với Smith, lý trí không và không thể đóng một vai trò cơ bản như vậy. Theo ông, ‘… thật hết sức phi lý và khó hiểu khi cho rằng những nhận thức đầu tiên về điều đúng và điều sai có thể xuất phát từ lý trí….’ (Luận về Cảm thức Đạo đức, Phương Ngô dịch, trang 299). Và đó là bởi vì đối với Smith, lý trí chỉ giới hạn ở việc là một máy tính đơn thuần: lý trí trong trường hợp tốt nhất cũng chỉ có thể xác định được phương tiện để đạt được mục đích, chứ không phải là bản thân mục đích.

Hạn chế này là hệ quả tự nhiên của sự nhận thức nghèo nàn về siêu hình học mà hầu hết các triết gia hiện đại đều mắc phải. Tuân theo lời khuyên của Descartes rằng phải gạt bỏ mọi điều có thể bị hoài nghi, phần lớn triết học hiện đại – một cách ngầm định – đã tuân theo phiên bản theo kiểu Descartes đầy tính thách thức do David Hume, người bạn được Adam Smith hết mực ngưỡng mộ, nêu ra:

“hãy cầm lên, chẳng hạn, bất kỳ cuốn sách nào – về thần học hay siêu hình học kinh viện. Hãy tự hỏi: nó có chứa đựng bất kỳ lập luận trừu tượng nào về số lượng hay con số không? Không. Nó có chứa đựng bất kỳ lập luận thực nghiệm nào về dữ kiện hay tồn tại không? Cũng không. Vậy thì, hãy quẳng nó vào lửa đi; vì nó không thể chứa đựng gì khác ngoài ngụy biện và ảo tưởng.” (Hume 1902, XII.iii; nhấn mạnh trong văn bản)

Nhắm thẳng vào ‘siêu hình học kinh viện’ của Aristotle, lập luận này dường như đòi hỏi phải bác bỏ thuyết mục đích luận hiện thực (realist teleology) của Aristotle, bởi vì các mục đích và tự tính được đưa ra trong hệ thống ấy không thuộc về bất kỳ phạm trù nào mà Hume cho là chấp nhận được. Chấp nhận điều này khiến chủ nghĩa hiện thực của Smith, cũng như sự phụ thuộc của ông vào các khái niệm về tự nhiên và lý trí, trở nên không có cơ sở triết học.

Đạo đức của Smith không dựa trên lý trí, mà dựa trên sự đồng cảm, và một mong muốn cơ bản về ‘…sự đáng khen ngợi; điều… là… đối tượng tự nhiên và đúng đắn của sự khen ngợi.’ (Luận về Cảm thức Đạo đức, Phương Ngô dịch, trang 111) Sự đáng khen ngợi đòi hỏi cảm xúc được cảm nhận trong một tình huống nhất định phải phù hợp với nó, theo cách người khác cảm nhận. Đối với Smith, thước đo duy nhất

mà qua đó sự phù hợp hoặc tính đúng đắn của tình cảm có thể được xác định hoặc đánh giá. Thước đo chính xác và rõ ràng đó không thể tìm thấy ở đâu khác ngoài cảm xúc đồng cảm của người quan sát khách quan và có đủ hiểu biết. (Luận về Cảm thức Đạo đức, Phương Ngô dịch,trang 279)

Mức độ phù hợp này được xác định bởi một quá trình phản ánh qua lại lặp đi lặp lại giữa một người quan sát được ý niệm hóa, tức là một ‘người bên trong tâm can’ tưởng tượng, và ‘ người thực tế đang ở trong hoàn cảnh được quan sát ‘. Mỗi người tưởng tượng phản ứng của mình sẽ ra sao nếu ở trong hoàn cảnh giống hệt người kia:

Để có được sự đồng điệu trong cảm xúc giữa người quan sát và người thực tế đang ở trong hoàn cảnh được quan sát, thì trước hết, người quan sát phải nỗ lực, trong khả năng của mình, đặt mình vào hoàn cảnh của người kia, phải cố gắng cảm nhận từng chi tiết nhỏ nhất của nỗi đau mà người kia có thể đang gánh chịu. Anh ta cần tiếp nhận trọn vẹn hoàn cảnh của người bạn đồng hành, cùng với tất cả những tình tiết dù là nhỏ nhặt nhất; và phải cố gắng làm cho sự hoán đổi tưởng tượng kia – nền tảng của sự đồng cảm – trở nên hoàn hảo nhất có thể (Luận về Cảm thức Đạo đức, Phương Ngô dịch, trang 28)

Nếu người thực tế đang ở trong hoàn cảnh được quan sát:

muốn hành động để người quan sát công tâm có thể thấu hiểu những nguyên tắc trong hành vi của mình – điều mà anh ta khao khát trên hết thảy – thì anh ta phải hạ bớt cái tôi và sự kiêu ngạo, xuống mức mà người khác có thể chấp nhận. Họ sẽ dung thứ cho anh ta trong chừng mực anh ta lo lắng nhiều hơn, và theo đuổi với nhiều nỗ lực hơn, hạnh phúc của chính mình so với hạnh phúc của người khác. Khi đặt mình vào hoàn cảnh của anh ta, họ sẽ sẵn lòng đồng hành cùng với anh ta. Trong cuộc đua giành giàu sang, danh vọng và địa vị, anh ta có thể chạy hết sức, gắng sức tận cùng, căng mọi dây thần kinh và cơ bắp để vượt qua mọi đối thủ. Nhưng nếu anh ta chen lấn hay xô ngã bất kỳ ai, thì sự dung thứ của người quan sát lập tức chấm dứt. Đó là sự vi phạm luật chơi công bằng – điều mà họ tuyệt nhiên không thể chấp nhận. (Luận về Cảm thức Đạo đức, Phương Ngô dịch, trang 118)

Là cá nhân bị ảnh hưởng trực tiếp, người đang thực sự chịu đựng sự việc cảm nhận rõ điều đó, và đồng thời khao khát một sự đồng cảm trọn vẹn hơn. Người ấy mong mỏi một sự khuây khỏa mà không gì khác có thể đem lại ngoài sự hòa hợp trọn vẹn của những cảm xúc trong lòng người quan sát với cảm xúc của chính mình. Được chứng kiến tâm hồn người khác, trong mọi sắc thái, đồng điệu với mình trong những xúc cảm dữ dội và buồn thảm, đó chính là niềm an ủi duy nhất của người ấy. Nhưng anh ta chỉ có thể hy vọng đạt được điều này bằng cách hạ thấp cường độ xúc cảm của bản thân xuống mức mà người quan sát có thể cùng chia sẻ. Anh ta phải làm dịu đi, nếu tôi được phép nói như vậy, sự sắc bén trong âm điệu tự nhiên của nó, để đưa nó về sự hài hòa và hòa hợp với cảm xúc của những người xung quanh. Điều mà họ cảm nhận, quả thực, sẽ luôn có một vài khía cạnh khác với điều anh ta cảm nhận, và lòng trắc ẩn không bao giờ có thể hoàn toàn giống với nỗi buồn nguyên thủy; bởi vì nhận thức thầm kín rằng sự thay đổi tình huống mà từ đó cảm xúc đồng cảm nảy sinh chỉ là tưởng tượng, không chỉ làm giảm mức độ của nó, mà ở một mức độ nào đó, còn làm nó thay đổi về bản chất, và mang lại cho nó một sắc thái hoàn toàn khác. Tuy nhiên, hai tình cảm này, rõ ràng, có thể có một sự tương ứng đủ để tạo nên sự hài hòa của xã hội. Dù chúng sẽ không bao giờ hoàn toàn trùng khớp, chúng vẫn có thể hòa hợp, và đây là tất cả những gì mà chúng ta cần hoặc được phép đòi hỏi.’ (Luận về Cảm thức Đạo đức, Phương Ngô dịch, trang 29)

> Tìm hiểu thêm: Luận về Cảm thức Đạo đức – Adam Smith – Book Hunter Lyceum

Mặc dù gắn liền với người quan sát công tâm, kết quả này nhất thiết phụ thuộc vào bản sắc cụ thể của “những người khác” mà sự chấp thuận đã được tìm kiếm một cách miệt mài, và vào tính đúng đắn hay không trong những đánh giá của họ. Cả phán đoán của họ lẫn phán đoán của người quan sát công tâm phản ánh chúng đều không dựa trên một tiêu chuẩn khách quan và hợp lý. Theo đó, mặc dù Adam Smith đồng ý với Aristotle rằng hành động đức hạnh phải phù hợp với hoàn cảnh, nhưng cơ sở của Smith để đánh giá những gì được coi là đức hạnh lại hoàn toàn khác: nó dựa trên cảm xúc hơn là lý trí.

Có một điểm khác biệt cơ bản nữa trong cách hiểu về đạo đức của Smith so với Aristotle. Đối với Smith, cũng như hầu hết các triết gia đạo đức, đạo đức là về mối quan hệ với người khác. Tuy nhiên, đối với Aristotle, đạo đức không chủ yếu liên quan đến cách người khác nên được đối xử. Và, không giống như Smith, nó cũng không giả định hay phản ánh bất kỳ mối quan hệ nào với một vị thần. Luân lý học Aristotle lại đề cập đến mức độ một cá nhân hiện thực hóa tiềm năng sống lý trí của chính mình, phù hợp với telos của con người:

…chức năng của con người là…

đảm bảo hoạt động của Tâm Hồn trong sự phù hợp với Lý Trí, hoặc chí ít là không độc lập khỏi Lý Trí‘ (Luân lý học, NXB Đà Nẵng, 2024, trang 50).

Các phẩm hạnh phản ánh cách tiếp cận đặc biệt này cũng khác nhau. Khác xa với sự khiêm nhường, hay sự khiêm tốn được Smith ca ngợi, các đức tính theo trường phái Aristotle được tôn vinh đó là kiêu hãnh, hay còn được hiểu rõ hơn với tên gọi megalopsychia, ‘sự kỳ vĩ của tâm hồn‘:

một người thực sự có Tâm Tư Vĩ Đại phải tốt, và bất cứ điều gì vĩ đại ở mỗi phẩm hạnh đều thuộc về người có Tâm Tư Vĩ Đại. (Luân lý học, NXB Đà Nẵng, 2024, trang 131).

Smith gán những đặc điểm tương tự cho ‘con người với sự thận trọng vượt trội’, người đại diện cho ‘cái đầu tốt nhất kết hợp với trái tim tốt nhất’. Sự tương đồng giữa hình tượng mà Smith hướng đến và megalopsychiac (người có Tâm Tư Vĩ Đại) quả thực đã được chính Smith thừa nhận. Nhưng tình cảm đồng loại mà Smith cho là được mọi người, kể cả những người có sự thận trọng vượt trội, mong muốn hơn cả, lại bị megalopsychiac coi thường.

Tóm lại, Aristotle và Adam Smith giống nhau ở nhiều điểm, khiến cả hai khác biệt đáng kể so với hầu hết các triết gia đạo đức; họ hoàn toàn khác với những người theo chủ nghĩa vị lợi, nghĩa vụ luận, cảm xúc luận, quy định luận, (utilitarians, deontologists, emotivists, prescriptivists) v.v. Phản ánh cách tiếp cận tự nhiên và lý trí thông thường của họ, nhiều đánh giá của Aristotle và Adam Smith về các tình huống đạo đức đều hợp lý và tương đồng. Tuy nhiên, Smith và Aristotle vẫn bị chia rẽ về cơ bản bởi nhận thức siêu hình học của họ. Trong khi sự hiểu biết của Aristotle về đạo đức dựa trên lý trí và hiểu được mục đích tự nhiên của con người, thì những tuyên bố về đạo đức của Adam Smith xoay quanh phản ánh cảm xúc và quan điểm về những gì được coi là đáng khen ngợi.

Nguồn: Ethics in Aristotle and Adam Smith

Lê Duy Nam dịch

> Tìm hiểu thêm: Combo sách “Luân lý học” của Aristotle và “Luận về Cảm thức Đạo đức” của Adam Smith – Book Hunter Lyceum