Home Chơi NHẠC TIỀN CHIẾN (8): CUNG TIẾN VÀ CUỘC DẠO CHƠI ĐẾN THÁNH ĐƯỜNG ÂM NHẠC

NHẠC TIỀN CHIẾN (8): CUNG TIẾN VÀ CUỘC DẠO CHƠI ĐẾN THÁNH ĐƯỜNG ÂM NHẠC

Có lẽ hiếm hoi có cuộc dạo chơi nào lại thú vị như Cung Tiến (sinh năm 1938) vào thánh đường của âm nhạc Việt Nam. Khi ông vào độ tuổi thiếu niên thì thời kỳ hoàng kim của âm nhạc lãng mạn ở miền bắc Việt Nam đã thoái trào và chuẩn bị bước vào giai đoạn âm nhạc phục vụ chính trị và chiến tranh, thế nhưng, ông vẫn tiếp tục sáng tác theo lối trữ tình tiền chiến, thậm chí còn đi xa hơn các nhạc sĩ tiền bối ở tính tượng trưng trong ca từ.

Ngay từ năm 14,15 tuổi, Cung Tiến (tên thật là Cung Thúc Tiến) đã nổi tiếng với hai ca khúc là “Thu vàng” và “Hoài cảm”. Với hai ca khúc này, ngay lập tức ông đạt tới vị trí sánh ngang với các cây đại thụ như Văn Cao, Đặng Thế Phong… Trong một lần trả lời phỏng vấn, Cung Tiến cho biết với ông ca khúc “Thu Vàng” là một bài tập khi ông mới bước vào lâu đài âm nhạc. Tiết lộ này của ông đã gây khá nhiều tranh luận trái chiều, nhưng bài hát vẫn có một vị trí không thể lay đổ trong nền âm nhạc Việt Nam.

Ca khúc “Thu Vàng”

Trong một bài phỏng vấn về ca khúc “Hoài cảm”, Cung Tiến đã kể lại cảm hứng thuở 14,15 tuổi ấy của ông như sau:

“Hoài Cảm” không phải là tác phẩm quan trọng lắm, bởi vì ở cái tuổi 14, 15 thì đâu có nghĩ sẽ viết một tác phẩm quan trọng đâu.
Hoài Cảm là bài hát mà tôi viết ra trong tưởng tượng. Tưởng tượng ra là mình nhớ một người nào mình yêu mến thôi, chứ không có ý nghĩ sâu xa gì đằng sau cả. Ðó chỉ hoàn toàn là trí tưởng tượng trong âm nhạc cũng như trong lời ca. Lời ca bị ảnh hưởng từ những bài thơ mình học ở trường, như thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, những nhà thơ lãng mạn của Việt Nam hồi đó.
Âm nhạc hay bất cứ sáng tác nghệ thuật nào, cũng là sự tưởng tượng cả. Tưởng tượng về cái này, tưởng tượng về cái kia, gây lên một mối sầu, mối buồn hay mối vui hay mối khoan thai, hoàn toàn là tưởng tượng của người sáng tác.

(Trả lời phỏng vấn của Phóng viên Thanh Lan)

Ca khúc “Hoài cảm”

Sau “Hoài cảm” là “Hương xưa”. “Hương xưa” là một ca khúc có sự kết hợp tuyệt vời giữa thanh nhạc phương tây và các nét nhạc Á Đông. Ca từ của “Hương xưa” như một bài thơ tượng trưng với các hình ảnh ẩn dụ, ước lệ lấy cảm hứng từ Đường thi.

Ôi, những đêm dài
hồn vẫn mơ hoài một kiếp xa xôi
Buồn sớm đưa chân cuộc đời
Lời Đường thi nghe vẫn rền trong sương mưa
Dù có bao giờ lắng men đợi chờ
Tình Nhị Hồ vẫn yêu âm xưa
Cung Nguyệt Cầm vẫn thương Cô-tô
Nên hồn tôi vẫn nghe trong mơ
tiếng đàn đợi chờ mơ hồ.
Vẫn thương muôn đời
nàng Quỳnh Như thuở đó

Ôi, những đêm dài
hồn vẫn mơ hoài một giấc ai mơ
Dù đã quên lời hẹn hò
Thời Hoàng Kim xa quá chìm trong phôi pha
Chờ đến bao giờ tái sinh cho người

Ca khúc “Hương xưa”

Từ năm 1957 đến 1963, ông du học ở Úc ngành Kinh tế học, và từ đây các sáng tác của Cung Tiến có phần thưa thớt hơn, cũng như có ít người biết đến hơn. Ông phổ thơ nhiều bài thơ tuyệt phẩm, trong đó nổi tiếng nhất là ca khúc “Nguyệt cầm”, phổ thơ Xuân Diệu. Trong ca khúc, ông đã biến tấu “Nguyệt cầm” thành những câu thơ cũng tuyệt tác chẳng kém nguyên tác:

Đêm mùa trăng úa làm vỡ hồn ta…
Ngập ngừng xa…suối thu dồn lá úa trôi qua
Sầu thu, sầu lên vút mịt mù, mà e nhớ hương mùa thu
Trăng Tầm Dương lung linh bóng sáng, từng thoáng lệ ngân, mà hồn phân vân cuồng điên nhớ
Long lanh tiếng Nguyệt Cầm, tiếng đàn trầm
Ai nhớ nương tử một đêm nao trăng thanh trong lời hát… chết theo nước xanh…Chết theo nước xanh…
Ôi đàn trăng cũ làm vỡ hồn anh…

Ca khúc “Nguyệt cầm”

Cung Tiến còn phổ thơ nhiều bài thơ phản chiến của Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên, nhưng hiện nay chúng tôi chưa tìm được bản thu. Thậm chí, chương trình hòa nhạc diễn tấu bản “Chinh phụ ngâm” do Cung Tiến biên soạn cũng không thể tìm thấy, mà dù chương trình ấy được tổ chức năm 1988 tại San Jose và được trao giải Văn học nghệ thuật quốc khánh trong năm ấy . Chúng tôi tìm được một bản thu bài “Vết chim bay” mà Cung Tiến phổ thơ Phạm Thiên Thư, một ca khúc nhuốm màu Phật giáo.

Ngày xưa tôi đón em
Trên gác chuông chùa nọ
Bây giờ tôi qua đó
Còn thấy chữ trong chuông
Tôi khoác áo nâu sồng
Em chân trời biền biệt
Tên ai còn tha thiết
trong tiếng chuông chiều đưa

Ca khúc “Vết chim bay”

Năm 1993, Saint Paul Companies đã tài trợ cho ông để nghiên cứu về quan họ Bắc Ninh và các thể loại dân ca Việt Nam khác. Ông đã soạn “Tổ khúc Bắc Ninh” cho dàn nhạc giao hưởng. Năm 2003, ông sáng tác một bản nhạc đương đại có tên “Lơ thơ tơ liễu buông mành” với điệu dân ca quan họ. Đến nay, các khán giả Việt Nam vẫn chưa có cơ hội tiếp cận với bản nhạc này của ông cũng như “Tổ khúc Bắc Ninh”.

Mặc dù là dạo chơi qua thánh đường âm nhạc nhưng những ca khúc của ông thực sự đã được xếp vào hàng tuyệt phẩm. Và cho dù ông tự nhận mình là “nghiệp dư” hay không thì mỗi ca khúc của ông đều thể hiện cho sự điêu luyện và chuyên nghiệp vào bấc nhất ở Việt Nam.

Cáo Hà Thành

NHẠC TIỀN CHIẾN (4): DƯƠNG THIỆU TƯỚC – NHẠC SĨ CỦA TÀI TỬ LÃNG DU

Dương Thiệu Tước (1915 – 1995) là nhạc sĩ tiền chiến tiên phong của nền tân nhạc Việt Nam. Ông xuất thân từ một gia đình Nho học truyền thống, cháu nội của nhà Nho tài tử Dương Khuê (tác giả của khúc ca trù nổi tiếng “Hồng hồng tuyết tuyết”), nên ca từ trong ca khúc của ông có màu sắc bảng lảng và thủ pháp ước lệ thường thấy trong thơ ca của các nhà Nho tài tử. Trong thập niên 30s của

NHẠC TIỀN CHIẾN (7): ĐẶNG THẾ PHONG – MỘT THIÊN BẠC MỆNH

Nếu để phong nhạc sĩ nào tài hoa nhất trong số các nhạc sĩ Việt Nam tiền chiến thì tôi có thể nói ngay mà không cần phải cân nhắc suy nghĩ, đó là Đặng Thế Phong (1918-1942). Tài năng của ông không phải chỉ được vun đắp bằng các kỹ năng âm nhạc mà bằng cái tình sâu lắng luôn hiển diện bên trong linh hồn người nghệ sĩ. Câu thơ của Nguyễn Du “tài tình chi lắm cho trời đất ghen” đúng ra

Văn Cao – Chông chênh giữa tiêu dao và trách nhiệm

Người ta oán trách Văn Cao vì đã từng làm sát thủ, từng viết những ca khúc đầy ngôn từ bạo lực; người ta cũng từng đấu tố Văn Cao vì tư tưởng lung lạc của ông dưới thời Cách mạng; và cũng có rất nhiều người phải nghiêng mình thán phục tài năng âm nhạc của ông cho dù ông viết các ca khúc cổ động hay các ca khúc trữ tình. Tôi cho rằng Văn Cao là một người bị giằng xé giữa

NHẠC TIỀN CHIẾN (5): ĐOÀN CHUẨN – CHÀNG CÔNG TỬ HÀO HOA ĐẤT BẮC

Nhắc đến nhạc tiền chiến, không thể không nhắc đến nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (1924 – 2001) . Nét nhạc của ông mang đậm hồn cốt của không khí đô thị xứ Bắc nửa đầu thế kỷ 20. Nhạc của ông nhẹ nhàng và sang trọng, tựa hồ như bụi bặm của cuộc đời không bén gót. Không “mang mang thiên cổ sầu” như Dương Thiệu Tước, Lê Thương…v…v…, không cảm xúc dạt dào như Nguyễn Văn Thương, không thoát tục như Văn Cao, không

NHẠC TIỀN CHIẾN (3): HOÀNG QUÝ – NHẠC SĨ CỦA NHỮNG BẢN ANH HÙNG CA

Hoàng Qúy (1920 – 1946) là một trong các nhạc sĩ tiên phong của nền Tân nhạc Việt Nam. Tuổi đời của ông tuy ngắn ngủi nhưng những đóng góp cho nền Tân nhạc lại mang tính chất nền tảng. Hoàng Qúy sinh ra tại Hải Phòng, ông theo học nhạc sĩ Lê Thương trong thời kỳ Lê Thương dậy học ở Hải Phòng (theo Phạm Duy). Ngoài ra, ông còn theo học một cách bài bản Tây nhạc với nữ giáo sư âm nhạc