Home Đối thoại & Thời cuộc Đánh đổi để phát triển ở Trung Quốc (3): Đi sau người khổng lồ Trung Quốc – các nước đang phát triển đã học được gì?

Đánh đổi để phát triển ở Trung Quốc (3): Đi sau người khổng lồ Trung Quốc – các nước đang phát triển đã học được gì?

Liệu các nước đi sau có khôn ngoan hơn người khổng lồ Trung Quốc? Như các phần trước, chúng ta thấy Trung Quốc đạt được thành tựu phát triển phi thường do sự dẫn dắt của nhà nước dám đưa ra các quyết định đánh đổi. Lãnh đạo sẵn sàng phát triển thị trường dù thể chế chưa đủ mạnh, chấp nhận sự tham nhũng và chênh lệch về phát triển, sẵn sàng chiến tranh với Việt Nam – nước cùng phe xã hội chủ nghĩa – để tranh thủ ảnh hưởng của Mỹ, sẵn sàng đàn áp người biểu tình ở Thiên An Môn, chấp nhận cho nền kinh tế tăng trưởng nóng với ô nhiễm, rủi ro tài chính, độc quyền, rồi cũng mạnh tay đảo ngược lại để chấn chỉnh thị trường.

Chúng ta cũng đã phân tích các lý do về bối cảnh, tâm lý lãnh đạo, đặc tính hệ thống, điều kiện ngoại cảnh đã dẫn đến những đánh đổi trên, và khiến chúng vượt khỏi dự tính ban đầu của các nhà lãnh đạo. Phân tích bác bỏ hai quan điểm cực đoan: quan điểm Lãnh đạo Trung Quốc tàn nhẫn nên coi thường sinh mạng và đời sống người dân, cũng như quan điểm Tất cả đánh đổi là cần thiết cho sự phát triển của Trung Quốc.

Từ các lý do cũng như đã phân tích, dễ dàng nhảy ngay đến kết luận dễ dàng rằng: chỉ cần học điều tốt và tránh điều xấu của Trung Quốc là có một mô hình hoàn hảo. Ví dụ, các nước đang phát triển như Việt Nam hãy học khả năng quyết định táo bạo của lãnh đạo Trung Quốc, nhưng cũng phải lắng nghe ý kiến người dân tốt hơn Trung Quốc. Các nước hãy học cách vận động toàn bộ bộ máy quan liêu vận hành tập trung cho mục tiêu, nhưng cũng cần vận động quan chức biết cách can ngăn quyết định sai lầm. Các nước hãy đầu tư mạnh về công nghiệp, nhưng phải biết bảo vệ môi trường, hãy có những doanh nghiệp tiên phong làm điểm sáng, nhưng phải biết chống độc quyền và đảm bảo không rủi ro tài chính… Nhưng thực tế có đơn giản như vậy không?

Có một điểm then chốt cần phải nêu: đó là chính Trung Quốc là nước học hỏi từ sự đánh đổi của chính mình, rồi áp dụng mô hình đó cho thế giới. Nhiều nước nghèo chưa cần chủ động học theo Trung Quốc cũng đã được mời chào và tạo điều kiện để đi theo người khổng lồ Trung Quốc để tiến về tương lai. Bài viết này giúp chúng ta có cái nhìn thực tế hơn về những người theo sau này – xem họ có đang thận trọng học theo ưu điểm và né tránh nhược điểm của mô hình Trung Quốc không, hay họ đang xoay sở ra sao. Điều này có lẽ càng quan trọng hơn khi Việt Nam chuẩn bị thực hiện dự án mang tính then chốt – đường sắt Bắc Nam. Đã đến lúc chúng ta nhìn về bức tranh thực tế của những nước đi theo.

> Đọc thêm: Đánh đổi để Phát triển: Những sự đánh đổi trong chính sách Trung Quốc – Phần 1

> Đọc thêm: Sự Đánh Đổi Trong Chính Sách Phát Triển Của Trung Quốc: Nguyên nhân và Điều chỉnh (Phần 2)

Trung Quốc vươn ra thế giới – Từ “người đi trước” đến xuất khẩu mô hình phát triển

Bước sang thế kỷ 21,Trung Quốc bắt đầu vươn tầm ảnh hưởng ra toàn cầu. Đặc biệt từ khoảng năm 2013, Chủ tịch Tập Cận Bình khởi xướng Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI – Belt and Road Initiative), mở ra thời kỳ Trung Quốc tăng cường đầu tư, cho vay và hợp tác phát triển với các nước đang phát triển. Đây là bối cảnh quan trọng mà trong đó nhiều quốc gia nghèo hơn vừa chứng kiến thành công của Trung Quốc, vừa nhận được sự chào mời hỗ trợ từ chính Trung Quốc. Nói cách khác, Trung Quốc trở thành một người khổng lồ thân thiện, “đi trước” và tích cực lan tỏa mô hình phát triển của mình ra bên ngoài.

Trong giai đoạn này, nhiều nước châu Á, Phi, Mỹ Latinh ở điểm xuất phát thấp đứng trước nhu cầu bức thiết về vốn và hạ tầng để phát triển. Phương Tây tuy có các chương trình viện trợ ODA (hỗ trợ phát triển chính thức), nhưng thường quy mô không đủ lớn và điều kiện khá khắt khe. Trung Quốc xuất hiện như một nhà đầu tư và cho vay mới, sẵn sàng rót hàng tỷ USD xây đường sá, cầu cống, nhà máy điện cho các nước bạn bè. Năm 2013, ông Tập công bố BRI lần lượt tại Kazakhstan và Indonesia; đến 2015 thì Trung Quốc lập ngân hàng AIIB và Quỹ Con đường Tơ lụa để cấp vốn cho sáng kiến này. Từ đó đến năm 2023, Trung Quốc đã ký thỏa thuận BRI với hơn 150 quốc gia và huy động tổng cộng ước tính khoảng 1 nghìn tỷ USD cam kết đầu tư cho các dự án khắp thế giới (gấp hơn 10 lần so với khoảng 70 tỷ USD tài trợ của chính phủ Mỹ). Quy mô tài chính khổng lồ này biến BRI thành chương trình phát triển hạ tầng lớn nhất kể từ Kế hoạch Marshall sau Thế chiến II, bỏ xa mọi nỗ lực ODA đơn lẻ của Mỹ hay châu Âu.

Sáng kiến Vành đai và Con đường khác gì so với viện trợ truyền thống của phương Tây? Trước hết là về triết lý và cách thức thực hiện. Viện trợ ODA của phương Tây (từ các tổ chức như World Bank, USAID, JICA…) thường tập trung vào các mục tiêu phát triển bền vững: giảm nghèo, cải thiện giáo dục, y tế, nâng cao năng lực quản trị. Các dự án ODA thường có quy mô vốn vừa phải, đi kèm điều kiện cải cách: đòi hỏi minh bạch, đấu thầu cạnh tranh, đánh giá tác động môi trường – xã hội. Ngược lại, BRI của Trung Quốc nhấn mạnh xây dựng hạ tầng cứng quy mô lớn (đường bộ, đường sắt, cầu cảng, điện năng…) với mục tiêu kích thích tăng trưởng nhanh. Trung Quốc áp dụng nguyên tắc “không can thiệp nội bộ”, tức ít hoặc không kèm điều kiện chính trị đối với nước nhận vốn (phù hợp với giai đoạn sau 1978 của Trung Quốc: phát triển kinh tế rồi thể chế tự đi theo). Điều này có nghĩa là các chính phủ vay tiền Trung Quốc không phải cam kết cải thiện dân chủ, nhân quyền hay chống tham nhũng theo yêu cầu của Bắc Kinh – rất khác so với viện trợ phương Tây vốn hay “ràng buộc” người nhận phải nâng cao chuẩn mực quản trị.

Thứ hai, về tính chất nguồn vốn, ODA phương Tây đa phần là viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với lãi suất siêu thấp, thời hạn dài và thậm chí xóa nợ nếu nước nhận gặp khó khăn (theo các sáng kiến giảm nợ cho nước nghèo). Trái lại, phần lớn vốn BRI là các khoản vay thương mại hoặc ưu đãi nhẹ từ các ngân hàng Trung Quốc, lãi suất phổ biến 2–5%/năm, và thường yêu cầu tài sản đảm bảo (quyền khai thác tài nguyên, thuê cảng, đất đai…). Hợp đồng vay Trung Quốc thường có điều khoản bảo mật và không tái cơ cấu, khiến nước vay không thể công khai chi tiết hoặc yêu cầu giảm nợ thông qua đàm phán đa phương. Bởi vậy, nếu dự án sử dụng vốn BRI không đạt hiệu quả kinh tế như kỳ vọng, nguy cơ vỡ nợ của nước vay sẽ cao hơn nhiều so với vay ODA mềm của phương Tây. Nói ngắn gọn, vay BRI sòng phẳng hơn, dễ hiểu hơn so với ODA của phương Tây.

Điểm khác biệt thứ ba là tốc độ và thủ tục. Đây là nơi BRI tỏ ra vượt trội: các dự án Trung Quốc thường được đàm phán và triển khai rất nhanh, ít thủ tục rườm rà. Nhiều nước đang phát triển nôn nóng cần hạ tầng đã chào đón điều này, vì họ mệt mỏi với quy trình phê duyệt kéo dài và đòi hỏi phức tạp từ ODA phương Tây. Chẳng hạn, để xây một tuyến đường sắt, nếu chờ vốn Ngân hàng Thế giới có khi mất vài năm nghiên cứu và điều kiện cải tổ, trong khi Trung Quốc có thể gật đầu cho vay chỉ sau vài tháng thương thảo. Việc “xây nhanh, giải ngân nhanh” giúp lãnh đạo các nước nghèo ghi điểm chính trị với người dân vì sớm có kết quả cụ thể (một cây cầu, nhà máy điện mọc lên). Trái lại, các chương trình xóa đói giảm nghèo hay cải cách thể chế tuy tốt về lâu dài nhưng hiệu ứng ban đầu mờ nhạt hơn. Đây là lý do thực dụng khiến nhiều chính phủ ưu tiên vốn Trung Quốc.

Không chỉ tốc độ, Trung Quốc còn linh hoạt chiều theo nhu cầu đối tác hơn. Họ sẵn sàng thương lượng song phương, điều chỉnh thiết kế cho hợp ý nước nhận, thay vì áp đặt khuôn mẫu cứng nhắc. Điều này khiến nhiều nước cảm thấy “được tôn trọng” khi làm việc với Bắc Kinh hơn là với các nhà tài trợ truyền thống. Đồng thời, do không có điều kiện nhân quyền, các chính quyền độc tài hoặc tham nhũng cũng thích vốn BRI vì “không ai lên lớp họ” về việc nội bộ. Trung Quốc sẵn sàng bắt tay với mọi chế độ, từ quân phiệt Myanmar, Thái Lan sau đảo chính, đến các nước Phi châu nhiều bê bối, miễn là đôi bên cùng có lợi. Trong khi đó Mỹ, EU đôi khi cắt viện trợ vì lý do dân chủ (ví dụ Mỹ ngừng hỗ trợ Thái Lan sau đảo chính 2014). Vì thế, với những nước bị phương Tây lạnh nhạt, BRI trở thành cứu cánh tài chính duy nhất.

Cuối cùng, không thể phủ nhận một động lực ngầm: lợi ích kinh tế cho giới lãnh đạo nước nhận. Dự án BRI thường gắn với nhà thầu Trung Quốc, nhưng cũng tạo cơ hội cho quan chức và doanh nghiệp bản địa hưởng lợi qua hoa hồng, hợp đồng phụ (giống với thời kỳ “Để một số người giàu trước” của Trung Quốc”. Quy trình BRI kém minh bạch hơn nên “phần trăm” có thể cao, trong khi đấu thầu ODA công khai thì quan chức khó rút ruột được. Điều này khiến một số người cầm quyền thiên về chọn BRI, bất chấp rủi ro nợ về sau. Tóm lại, nhiều quốc gia tham gia BRI không hẳn vì so sánh mô hình phát triển nào ưu việt hơn, mà vì những toan tính thực dụng trước mắt: có tiền xây hạ tầng nhanh, không bị ràng buộc khó chịu, và có lợi ích riêng cho họ.

Cách làm của Trung Quốc với BRI phản ánh chính bài học phát triển của họ. Trung Quốc từng bứt phá kinh tế nhờ tập trung xây dựng hạ tầng lớn, chấp nhận đánh đổi môi trường, nợ nần trong ngắn hạn để đổi lấy tăng trưởng dài hạn. Giờ đây, qua BRI, họ trao cho các nước khác “công thức” tương tự: bơm vốn làm đường cao tốc, bắc cầu, xây nhà máy điện… để các nước đó cũng có cú hích vươn lên, bất chấp có thể phải gánh nợ hoặc tác động môi trường. BRI thực chất là “xuất khẩu” kinh nghiệm phát triển của Trung Quốc: tập trung vào đầu tư và thương mại thay vì cải cách thể chế.

Gần đây hơn: Trung Quốc cũng rút kinh nghiệm từ những đánh đổi của mình để điều chỉnh BRI: ví dụ sau khi bị chỉ trích vì gây ô nhiễm và nợ nần, Bắc Kinh vài năm gần đây tuyên bố BRI chuyển sang giai đoạn “phát triển xanh, bền vững”. Họ ngừng tài trợ nhà máy nhiệt điện than ở nước ngoài, kêu gọi “BRI xanh” và sàng lọc dự án kỹ hơn về nợ, môi trường. Đó chính là do Trung Quốc đã nếm trải hậu quả ô nhiễm và dư nợ trong nước, nên không muốn lặp lại sai lầm trên sân khấu quốc tế – ít nhất là vì uy tín của họ và khả năng thu hồi nợ.

Các nước đang phát triển xoay xở ra sao dưới bóng mô hình Trung Quốc?

Với sức ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc, nhiều quốc gia đang phát triển đã quan sát và học hỏi từ mô hình của Bắc Kinh. Mỗi nước có cách ứng phó và vận dụng khác nhau, tùy hoàn cảnh riêng. Dưới đây, chúng ta sẽ nhìn vào một số nước đi sau tiêu biểu – Kazakhstan, Bangladesh, Senegal, Ethiopia, Kenya, Sri Lanka và Việt Nam – để xem họ đã thành công hay gặp trở ngại gì trong việc phát triển kinh tế dưới tác động của Trung Quốc, và liệu có nước nào giảm thiểu được những đánh đổi so với con đường của Trung Quốc hay không.

Kazakhstan: Cửa ngõ Á-Âu và sự trỗi dậy nhờ kết nối

Kazakhstan ở Trung Á là một ví dụ về nước tích cực hợp tác với Trung Quốc để phát triển hạ tầng và kinh tế. Nằm trên tuyến “Vành đai kinh tế Con đường Tơ lụa” Á-Âu, Kazakhstan được hưởng lợi sớm từ BRI. Trung Quốc đầu tư mạnh vào mạng lưới đường bộ và đường sắt xuyên biên giới qua Kazakhstan, cũng như các đường ống dẫn dầu khí từ Trung Á về Trung Quốc. Một dự án tiêu biểu là trung tâm hợp tác công nghiệp Kazakhstan – Trung Quốc tại Khorgos (biên giới hai nước). Từ vùng sa mạc hoang vu, Khorgos đã mọc lên một khu logistics – sản xuất sầm uất, trở thành đầu mối giao thương trên bộ giữa Trung Quốc và châu Âu. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận định khu chế xuất mới ở Khorgos đang “giải phóng tiềm năng kinh tế bị dồn nén bấy lâu” của Kazakhstan. Nhờ vị trí địa chiến lược và vốn BRI, Kazakhstan đang dần trở thành “cửa ngõ thương mại lục địa” kết nối Đông-Tây, mang lại công ăn việc làm và tăng trưởng cho người dân.

Tuy nhiên, đi kèm cơ hội là sự đánh đổi về ảnh hưởng chính trị. Trung Quốc rót vốn và xây dựng nhiều ở Trung Á cũng đồng nghĩa tầm ảnh hưởng của Bắc Kinh tăng mạnh tại Kazakhstan. Nước này ngày càng phải cân bằng giữa lợi ích kinh tế với Trung Quốc và lo ngại của người dân về sự phụ thuộc. Đã có những đợt biểu tình ở Kazakhstan phản đối cho Trung Quốc thuê đất nông nghiệp hay việc có quá nhiều lao động Trung Quốc sang làm việc. Chính quyền Kazakhstan nhìn chung vẫn kiểm soát ổn định và hưởng lợi kinh tế, nhưng họ hiểu rằng phải thận trọng tránh để đất nước “lệ thuộc một phía”. Cho đến nay, Kazakhstan có vẻ khá thành công trong việc tận dụng vốn Trung Quốc có chọn lọc: tập trung dự án hạ tầng then chốt, tránh vay quá nhiều vượt khả năng. Nhờ dầu mỏ dồi dào và chính sách tài khóa cẩn trọng, Kazakhstan chưa rơi vào bẫy nợ, đồng thời vẫn duy trì quan hệ tốt với cả Nga, Trung Quốc lẫn phương Tây để không bị lệ thuộc hoàn toàn vào một bên.

Bangladesh và Sri Lanka: Hai số phận trái ngược trong việc vay vốn Trung Quốc

Bangladesh và Sri Lanka – hai quốc gia Nam Á – thường được so sánh như hai trường hợp trái ngược trong việc học hỏi và sử dụng nguồn vốn phát triển từ Trung Quốc. Cả hai nước này đều từng chào đón đầu tư từ Trung Quốc, nhưng cách quản lý khác nhau đã dẫn đến kết quả rất khác.

Bangladesh tham gia sáng kiến BRI từ 2016 và cũng nhận vốn Trung Quốc cho một số dự án lớn như cầu Padma (đường sắt) hay nhà máy điện Payra. Tuy nhiên, chính phủ Bangladesh tỏ ra thận trọng và khôn ngoan trong việc chọn lọc dự án. Họ yêu cầu thẩm định kỹ lưỡng và đấu thầu công khai hơn, thay vì mặc nhiên giao thầu cho phía Trung Quốc. Bangladesh cũng chiến lược đa dạng hóa nguồn vốn: bên cạnh Trung Quốc, nước này hợp tác chặt với Nhật Bản (ví dụ cảng nước sâu Matarbari do Nhật đầu tư, thay vì nhận đề xuất cảng Sonadia của Trung Quốc), với Ấn Độ (phát triển mạng lưới đường bộ), và với Nga (nhà máy điện hạt nhân Rooppur). Nhờ giữ cân bằng như vậy, tỷ trọng nợ Trung Quốc trong tổng nợ nước ngoài của Bangladesh khá thấp – chỉ khoảng 6% (tính đến 2022). Kinh tế Bangladesh tăng trưởng ổn định ~6–7%/năm và chưa từng gặp khủng hoảng nợ. Khi chứng kiến “bài học Sri Lanka”, các quan chức Bangladesh lại càng cảnh giác, chủ động từ chối những đề nghị vốn không có lợi: chẳng hạn họ bác bỏ dự án cảng biển 10 tỷ USD do Trung Quốc đề xuất để tránh lặp lại kịch bản Hambantota. Nhờ đó, hiện nay Bangladesh có nền kinh tế ổn định, thu nhập bình quân đầu người khoảng 2.500 USD – cao hơn hẳn Sri Lanka (~1.800 USD) vốn bị sụt giảm do khủng hoảng.

Trái với Bangladesh, Sri Lanka đã lao đao vì quá lệ thuộc hỗ trợ từ Trung Quốc mà thiếu thận trọng. Chính quyền Sri Lanka trong nhiều năm vay mượn mạnh tay để xây loạt dự án hào nhoáng (cảng biển, sân bay, thành phố cảng Colombo) hy vọng biến nước này thành trung tâm logistics. Tuy nhiên, nhiều dự án trong số đó không đem lại hiệu quả kinh tế tương xứng – tiêu biểu là cảng Hambantota. Chính phủ Sri Lanka năm 2007 vay Trung Quốc khoảng 300 triệu USD (chiếm 85% vốn dự án) để xây cảng nước sâu Hambantota, bất chấp nhiều báo cáo cho thấy cảng này không khả thi về kinh tế (lưu lượng tàu bè quá thấp) và đã bị các nhà tài trợ khác từ chối. Quả nhiên sau khi hoàn thành năm 2010, cảng Hambantota vắng như “chợ chiều”: năm 2012 chỉ có 34 tàu cập cảng, trong khi hàng chục nghìn chuyến tàu đi qua tuyến biển gần đó mỗi năm. Doanh thu èo uột không đủ trả lãi, đến cuối 2017 Sri Lanka mất khả năng trả nợ. Nước này buộc phải chấp nhận cho Trung Quốc thuê lại cảng cùng 15.000 ha đất xung quanh trong 99 năm để đổi lấy việc xóa nợ. Sự kiện này được xem như ví dụ điển hình của “bẫy nợ ngoại giao”: Trung Quốc cho vay vượt quá khả năng trả nợ nhằm cuối cùng nắm quyền kiểm soát tài sản chiến lược của nước vay. Việc quản trị yếu kém, thiếu tầm nhìn dài hạn khiến Sri Lanka rơi vào bẫy nợ. Đến năm 2022, Sri Lanka vỡ nợ quốc gia lần đầu tiên trong lịch sử, đồng tiền mất giá và lạm phát phi mã gây khủng hoảng xã hội. Đương nhiên, nợ Trung Quốc không phải nguyên nhân duy nhất (Sri Lanka còn nợ các nguồn khác và có sai lầm chính sách), nhưng Trung Quốc là chủ nợ lớn giữ phần không nhỏ trong tổng nợ, và những dự án do Trung Quốc tài trợ đã góp phần đẩy Sri Lanka vào tình trạng kiệt quệ. Hiện nay, Sri Lanka phải nhờ cậy IMF và đàm phán khó khăn với các chủ nợ (trong đó có Trung Quốc) để cơ cấu lại nợ, đánh đổi bằng các biện pháp thắt lưng buộc bụng đau đớn cho người dân.

So sánh hai trường hợp trên cho thấy: quyết sách nội tại mang tính quyết định. Sri Lanka mắc sai lầm vì vay quá nhiều, thiếu quản trị, còn Bangladesh thì phát triển ấn tượng hơn nhờ tận dụng vốn Trung Quốc trong giới hạn cho phép và cân bằng với nguồn khác. Bangladesh tỏ ra có tầm nhìn tài chính bền vững hơn, trong khi Sri Lanka sa đà vào những dự án hào nhoáng vượt khả năng trả nợ. Bài học rút ra là các nước nhỏ nếu biết tự kiểm soát tham vọng và đa dạng hóa quan hệ, họ có thể hưởng lợi từ mô hình Trung Quốc mà giảm được nhiều rủi ro.

Senegal: Phát triển hạ tầng – duy trì ổn định tài chính

Chuyển sang châu Phi, Senegal là một trong những nước hợp tác tích cực với Trung Quốc và được nhiều nhà phân tích coi là ví dụ khá thành công tính đến nay. Senegal có quan hệ ngoại giao thân thiện với Bắc Kinh; Trung Quốc đã đầu tư xây dựng nhiều công trình nổi bật ở Senegal như đường cao tốc nối Dakar với Thiès, các cây cầu lớn, nhà hát quốc gia, đấu trường thể thao… Việc cải thiện hạ tầng giao thông nhờ vốn Trung Quốc đã đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP hơn 6%/năm của Senegal giai đoạn 2014–2018 – thuộc hàng cao nhất châu Phi. Người dân được hưởng lợi từ đường sá tốt hơn, kết nối các vùng dễ dàng giúp thương mại nội địa phát triển. Đồng thời, Senegal không rơi vào tình trạng nợ nần mất kiểm soát: chính phủ nước này vẫn duy trì hợp tác với nhiều đối tác khác (Pháp, WB, các nước Arab), và quản lý nợ trong ngưỡng an toàn. Theo dữ liệu mới nhất (2025), tỷ lệ nợ công/GDP của Senegal khoảng 75%, phần nợ Trung Quốc chiếm tỷ lệ không quá cao so với tổng nợ (phần lớn nợ của Senegal là trái phiếu quốc tế và vay đa phương). Tất nhiên, đại dịch COVID-19 và lạm phát toàn cầu gần đây cũng gây áp lực tài chính lên Senegal, nhưng nước này vẫn nỗ lực cân đối bằng cách huy động vốn trong nước và khu vực (phát hành trái phiếu khu vực Tây Phi). Có thể nói, Senegal đã học theo mô hình đầu tư hạ tầng của Trung Quốc để thúc đẩy tăng trưởng, song cũng học từ bài học đánh đổi của Trung Quốc để không đi quá xa. Họ không “bỏ hết trứng vào giỏ Trung Quốc”, mà vẫn duy trì kỷ luật tài chính và đa phương hóa quan hệ phát triển.

Ethiopia và Kenya: Tăng trưởng nhanh nhưng đối mặt áp lực

Ethiopia và Kenya ở Đông Phi là hai ví dụ khác về việc tiếp nhận mô hình Trung Quốc – đặc biệt trong phát triển hạ tầng – với cả thành công và thách thức đan xen.

Ethiopia từng được ca ngợi là “Trung Quốc của châu Phi” nhờ tốc độ tăng trưởng hai con số suốt hơn một thập kỷ. Chính phủ Ethiopia công khai ca ngợi và học hỏi mô hình “nhà nước phát triển” định hướng bởi một đảng cầm quyền, tương tự Trung Quốc. Họ ưu tiên xây dựng hạ tầng quy mô lớn để tạo nền tảng công nghiệp hóa. Với sự giúp đỡ của Trung Quốc, Ethiopia đã xây hàng loạt đường bộ, đập thủy điện và đặc biệt là tuyến đường sắt Addis Ababa – Djibouti dài ~750 km giúp quốc gia không giáp biển này có lối ra biển. Tuyến đường sắt điện khí hóa do Trung Quốc thi công hoàn thành năm 2017, rút ngắn thời gian vận chuyển hàng từ thủ đô Ethiopia ra cảng Djibouti từ 3 ngày xuống khoảng 12 giờ. Nhờ những dự án như vậy, chi phí logistics giảm, thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp dệt may, giày dép do Trung Quốc xây ở Ethiopia, tạo hàng triệu việc làm cho lao động trẻ. Tỷ lệ nghèo đói ở Ethiopia giảm đáng kể trong thập niên 2010.

Tuy nhiên, Ethiopia cũng phải trả giá tương tự Trung Quốc về nợ và bất ổn. Nước này vay rất nhiều từ Trung Quốc (ước tính trên 13 tỷ USD từ 2000–2018) cho các dự án BRI, khiến nợ công tăng cao. Đến 2021, Ethiopia rơi vào diện cần tái cơ cấu nợ và đã đề nghị nhóm G20 hỗ trợ giảm nợ (trong đó nợ Trung Quốc là một phần đáng kể). Tiến trình đàm phán bị kéo dài do các bên chủ nợ chưa thống nhất, làm Ethiopia chịu cảnh thiếu vốn cho phát triển. Thêm vào đó, cuộc xung đột nội chiến 2020–2022 ở vùng Tigray đã giáng đòn nặng vào kinh tế Ethiopia, khiến tăng trưởng chững lại và nợ nần càng khó gánh. Hiện tại, Ethiopia vẫn nỗ lực giữ quan hệ với Trung Quốc – đối tác đầu tư lớn nhất – nhưng đồng thời phải nhờ đến IMF và World Bank để ổn định kinh tế. Trải nghiệm của Ethiopia cho thấy mô hình tăng trưởng nóng dựa vào vay nợ có thể bộc lộ điểm yếu khi gặp cú sốc chính trị hay dịch bệnh.

Còn Kenya là một trong những nước tham gia BRI tích cực nhất ở châu Phi. Kenya đã nhận hàng tỷ USD tín dụng Trung Quốc để xây dựng đường sắt cao tốc SGR nối từ cảng Mombasa đến thủ đô Nairobi (hoàn thành 2017) và mở rộng mạng lưới đường cao tốc, đường ống dầu. Nhờ đó, bộ mặt hạ tầng Kenya cải thiện vượt bậc, rút ngắn thời gian đi lại giữa các vùng. Tăng trưởng kinh tế Kenya giai đoạn 2015–2019 đạt trung bình ~5-6%/năm, một phần nhờ cú hích đầu tư công. Tuy nhiên, Kenya đang đối mặt vấn đề hiệu quả và nợ của các dự án lớn. Tuyến đường sắt SGR mới mặc dù hiện đại nhưng lưu lượng hành khách và hàng hóa chưa đạt kỳ vọng, dẫn đến doanh thu không đủ bù chi phí vận hành. Mỗi năm, chính phủ phải bù lỗ hàng chục triệu USD cho tuyến này. Trong khi đó, khoản vay xây dựng SGR (khoảng 3,2 tỷ USD) là gánh nặng lớn. Tính đến 2023, nợ công của Kenya đã vượt 65% GDP, trong đó nợ Trung Quốc chiếm khoảng 1/3 tổng nợ nước ngoài. Trả nợ đang trở thành áp lực với ngân sách Kenya, buộc nước này phải đàm phán giãn nợ với Trung Quốc và siết chi tiêu trong nước. Như vậy, Kenya được lợi ngắn hạn từ mô hình Trung Quốc (hạ tầng tốt hơn, tăng trưởng nhanh), nhưng đánh đổi là gánh nặng nợ dài hạn nếu các dự án không sinh lời đủ. Chính phủ Kenya hiện cố gắng thương lượng lại một số điều khoản vay và tìm cách nâng hiệu suất sử dụng đường sắt (ví dụ thúc đẩy vận tải hàng hóa bắt buộc qua SGR) để cải thiện tình hình.

Tựu trung, Ethiopia và Kenya là những điển hình của châu Phi đã noi theo mô hình Trung Quốc: mạnh tay vay tiền xây dựng, chấp nhận rủi ro vì tin vào tăng trưởng tương lai. Họ đã đạt thành quả nhất định về phát triển cơ sở hạ tầng và công nghiệp hóa, nhưng cũng thấm thía bài học rằng tăng trưởng nhanh phải đi đôi quản trị nợ tốt. Nếu không, thành quả có thể đảo ngược nhanh chóng khi khó khăn ập đến.

Việt Nam: Học hỏi có chọn lọc và cạnh tranh song song với Trung Quốc

Việt Nam là trường hợp đặc biệt gần gũi với Trung Quốc về văn hóa – chính trị, nhưng lại cho thấy một cách tiếp cận khác thận trọng trước mô hình phát triển của Bắc Kinh. Về mặt lịch sử, Việt Nam từng học sâu từ Trung Quốc trong công cuộc Đổi Mới (1986), dựa trên cảm hứng từ chính sách cải cách mở cửa mà Trung Quốc tiến hành trước đó. Cả hai nước đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, cùng chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam cũng áp dụng chiến lược tương tự: mở cửa thu hút FDI, lập khu công nghiệp, khuyến khích kinh tế tư nhân và xuất khẩu, trong khi duy trì một đảng cầm quyền để đảm bảo ổn định chính trị. Mô hình “nhà nước dẫn dắt phát triển” đó đã đem lại thành tựu ấn tượng cho Việt Nam: GDP tăng trung bình 6-7%/năm suốt 30 năm, biến một quốc gia từ chỗ nghèo nàn thành nước thu nhập trung bình thấp. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam nhảy vọt từ dưới 100 USD cuối thập niên 1980 lên khoảng 4.700 USD năm 2024. Tỷ lệ nghèo đói giảm từ trên 50% xuống còn dưới 2% dân số – một thành tích xoá đói giảm nghèo thuộc loại nhanh nhất thế giới. Việt Nam cũng gây dựng được nền công nghiệp xuất khẩu năng động (điện tử, dệt may, thủy sản…), đời sống người dân cải thiện rõ rệt.

Tuy nhiên, tương tự “người khổng lồ” Trung Quốc, Việt Nam đã phải đánh đổi nhiều mặt để đạt tăng trưởng. Bất bình đẳng thu nhập tăng dần: hệ số Gini của Việt Nam từ ~30 đầu 1990 lên ~36 năm 2022, cho thấy khoảng cách giàu nghèo nới rộng khi một bộ phận (chủ yếu đô thị) làm giàu nhanh, còn nông thôn, dân tộc thiểu số tụt lại phía sau. Ô nhiễm môi trường cũng trở nên nghiêm trọng: Hà Nội, TP.HCM nhiều năm thuộc nhóm thành phố ô nhiễm không khí nhất thế giới; đã xảy ra những sự cố môi trường lớn (như thảm họa nhà máy Formosa xả thải 2016 làm cá chết hàng loạt) do ưu tiên công nghiệp bằng mọi giá. Về kinh tế, Việt Nam từng trải qua bong bóng tín dụng và lạm phát 20% năm 2008 khi chạy theo tăng trưởng nóng, buộc sau đó phải thắt chặt chính sách để ổn định vĩ mô. Về chính trị – xã hội, Việt Nam duy trì mô hình kiểm soát chặt chẽ về chính trị, các hoạt động dân sự, báo chí, xuất bản, và gần hơn là hoạt động trên mạng xã hội.

Điều đáng chú ý là trong khi học hỏi Trung Quốc về mô hình kinh tế, Việt Nam lại tỏ ra rất dè dặt với việc vay vốn và dự án trong khuôn khổ BRI của Trung Quốc. Dù hai nước là láng giềng “núi liền núi, sông liền sông” và Đảng Cộng sản hai bên vẫn giữ quan hệ hữu nghị, lãnh đạo Việt Nam từ 2013 đến nay ít tiếp nhận dự án thuộc BRI. Theo TS. Lê Hồng Hiệp (Viện ISEAS, Singapore), Việt Nam ủng hộ BRI trên lời nói ngoại giao (vẫn cử đoàn tham dự diễn đàn, tuyên bố hoan nghênh sáng kiến) nhưng không mặn mà tham gia dự án cụ thể hoặc vay vốn trong khung BRI. Thống kê cho thấy đến nay, Việt Nam chưa chính thức gắn nhãn BRI cho bất kỳ dự án nào trên lãnh thổ mình. Phía Trung Quốc có liệt kê một vài công trình do họ tài trợ tại Việt Nam như tuyến đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông ở Hà Nội (vay ODA Trung Quốc ~868 triệu USD) hay nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1 (vốn doanh nghiệp Trung Quốc). Nhưng Việt Nam không công nhận các dự án này thuộc BRI, và thực tế cũng không tiếp nhận thêm dự án hạ tầng quy mô lớn mới nào từ Bắc Kinh.

Thay vì dựa vào BRI, Việt Nam lựa chọn chiến lược đa dạng hóa nguồn lực phát triển. Về vốn đầu tư, Việt Nam tích cực thu hút FDI từ các nước phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Mỹ, châu Âu – những đối tác đầu tư lớn hàng đầu tại Việt Nam. Vốn ODA ưu đãi thì Việt Nam ưu tiên nhận từ Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á… Các nước này hỗ trợ Việt Nam nhiều dự án hạ tầng quan trọng (như đường cao tốc Bắc – Nam do Nhật giúp vốn, metro TP.HCM do Nhật & EU tài trợ). Nhờ đó, tỷ trọng vốn vay Trung Quốc trong nợ công của Việt Nam rất thấp, dưới 5% tổng nợ nước ngoài. Việt Nam chấp nhận có thể “bỏ lỡ” một số khoản vay rẻ từ Trung Quốc, đổi lại giảm thiểu được rủi ro về nợ và phụ thuộc, giữ được thế cân bằng chiến lược. Đây là quyết định có phần chịu ảnh hưởng từ bài học lịch sử: Việt Nam từng xung đột với Trung Quốc (chiến tranh biên giới 1979), nên giới lãnh đạo luôn giữ tâm lý cảnh giác, không muốn “dựa dẫm” quá mức. Trong khi đó, nước láng giềng Campuchia lựa chọn ngả hẳn theo Trung Quốc, dẫn đến độ độc lập suy giảm – Việt Nam nhìn vào đó để củng cố niềm tin rằng con đường tự chủ tuy khó khăn hơn nhưng an toàn hơn về dài hạn.

Những năm gần đây, khi chi phí sản xuất ở Trung Quốc tăng cao và chiến tranh thương mại Trung – Mỹ nổ ra, nhiều tập đoàn quốc tế tìm cách chuyển cơ sở sản xuất sang nước khác. Việt Nam nhanh chóng nắm bắt cơ hội này: cải thiện môi trường đầu tư, ký kết các hiệp định thương mại tự do lớn (như CPTPP, EVFTA) để trở thành điểm đến hấp dẫn thay thế Trung Quốc. Kết quả, Việt Nam đã đón làn sóng FDI trong lĩnh vực công nghệ – điện tử (Samsung, Apple, Intel mở rộng sản xuất tại Việt Nam) mà lẽ ra trước đây tập trung ở Trung Quốc. Điều này giúp kinh tế Việt Nam “bứt tốc” trong chuỗi cung ứng toàn cầu, xuất khẩu 2022 đạt trên 370 tỷ USD – xấp xỉ mức của cả nền kinh tế Trung Quốc cách đây 20 năm. Tất nhiên, Việt Nam vẫn phụ thuộc nặng vào nhập khẩu nguyên liệu, máy móc từ Trung Quốc (nhập siêu lớn), nhưng nước này đang tìm cách đa dạng hóa nguồn cung, liên kết với Ấn Độ, Hàn Quốc để tránh lệ thuộc hoàn toàn vào Bắc Kinh.

Nhìn chung, Việt Nam vừa học hỏi mô hình Trung Quốc, vừa cạnh tranh và giữ khoảng cách khi cần thiết. Mô hình phát triển của Việt Nam có thể xem là “bản sao điều chỉnh” từ Trung Quốc: cũng đề cao ổn định chính trị, huy động mọi nguồn lực cho tăng trưởng, nhưng tinh lọc một số bài học để hạn chế mặt trái. Việt Nam cố gắng thực hiện phát triển cân bằng hơn – dù không thể tránh hết đánh đổi, để xảy ra các vấn đề về lạm phát đô thị, giá đất tăng cao, khó kiểm soát giá vàng.

Liệu Việt Nam có thể liên tục học điều tốt, rút kinh nghiệm từ điều xấu của quá trình phát triển ở Trung Quốc, đặc biệt trong vấn đề bất động sản, thất nghiệp tăng cao? Liệu nước ta có tham gia sâu hơn vào Vành đai và con đường với dự án đường sắt cao tốc, tương tự như Indonesia và Lào? Đây là câu hỏi cấp thiết đáng quan tâm.

Kết luận

Mô hình phát triển “tăng trưởng thần tốc đổi lấy đánh đổi lớn” của Trung Quốc vừa là tấm gương truyền cảm hứng, vừa là lời cảnh tỉnh cho các nước đang phát triển. Những quốc gia như Kazakhstan, Bangladesh, Senegal, Ethiopia, Kenya, Sri Lanka, Việt Nam mỗi nước một cảnh đã tiếp thu bài học từ Trung Quốc theo cách riêng. Có nước tận dụng tốt nguồn lực và kinh nghiệm của Trung Quốc để vươn lên, giảm thiểu được không ít đánh đổi (như Bangladesh, Việt Nam); cũng có nước sa vào vết xe đổ về nợ nần, phụ thuộc (như Sri Lanka) hoặc vẫn đang loay hoay giữa cơ hội và rủi ro (như Kenya, Ethiopia). Tựu trung, không có con đường phát triển nào hoàn hảo và miễn phí. Cái chính yếu là mỗi quốc gia phải hiểu rõ hoàn cảnh mình, lựa chọn đối tác và mô hình phát triển phù hợp, kiểm soát tham vọng và rủi ro. Bài học từ Trung Quốc và các nước kể trên cho thấy: phát triển nhanh rất đáng mơ ước, nhưng đi kèm nó luôn là trách nhiệm quản trị sáng suốt để tránh trả những cái giá quá đắt trong tương lai. Các nước đang phát triển nếu biết “nhìn trước ngó sau”, học hỏi thành công cũng như thất bại của người đi trước, chắc chắn sẽ có thể tiến những bước vững chắc hơn trên con đường phát triển của chính mình.

Nguyễn Phương Mạnh

Tìm hiểu thêm: Dự án xuất bản sách nghiên cứu chính trị – kinh tế Trung Quốc của Book Hunter

Đánh đổi để Phát triển ở Trung Quốc (1): Bắt đầu từ chính sách

Thế giới luôn phải sửng sốt với tốc độ chuyển mình phát triển của Trung Quốc trong gần 50 năm qua, tuy nhiên càng tìm hiểu thêm về quá trình phát triển của Trung Quốc, tôi càng thấm thía được chữ “Đánh đổi” – Đánh đổi giữa tăng trưởng và công bằng, đánh đổi kinh tế và môi trường, thậm chí đánh đổi giữa mục tiêu dân tộc và sinh mạng người dân. Trung Quốc được như ngày nay do lãnh đạo dám đánh đổi,

Đánh đổi để phát triển ở Trung Quốc (2): Nguyên nhân và Điều chỉnh

Lịch sử phát triển của Trung Quốc cho thấy nhiều đánh đổi (trade-off) khắc nghiệt nhằm đạt được tăng trưởng kinh tế cao, ổn định chính trị xã hội. Ví dụ như việc chấp nhận giảm sản lượng lương thực nhằm thực hiện Đại nhảy vọt, dẫn đến việc 30 triệu người chết đói, hoặc việc chấp nhận ô nhiễm môi trường, bất bình đẳng xã hội, độc quyền lũng đoạn thị trường, tham nhũng nhằm tăng trưởng nhanh, đàn áp dã man người bất