Nhiều năm qua các tập đoàn toàn cầu như Apple, Samsung,.. đầu tư rót vốn kinh doanh mạnh mẽ vào Việt Nam, ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang đầu tư ra nước ngoài như thế nào?
Go Global – Động lực tự nhiên
Tính đến hết tháng 6/2025, Việt Nam đã có 1.916 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài là hơn 23 tỷ USD. Trong đó, theo thống kê, đa phần là dự án có quy mô vốn đầu tư dưới 20 tỷ đồng, chiếm tới 67,4% tổng số dự án, nhưng có tỷ lệ nhỏ về vốn (khoảng 1,7% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài); số dự án có vốn đầu tư trên 20 tỷ đồng chiếm khoảng 28% tổng số dự án, nhưng chiếm phần đa về vốn (khoảng 98,3% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài); số còn lại là các dự án nhỏ dưới 1,2 tỷ đồng (tương đương 50.000 USD). Các doanh nghiệp lớn như Viettel, Tập đoàn dầu khí Việt Nam, và tư nhân có FPT, Thế Giới Di Động, TH Truemilk,… vẫn đóng góp chính vào dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam. Theo đánh giá cá nhân thì một doanh nghiệp Việt Nam muốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hiện nay vẫn phải đối mặt với chi phí rất cao do không có sự định hướng hỗ trợ rõ ràng của chính quyền thể hiện ở các hồ sơ, quy trình, thủ tục cấp phép còn tương đối chặt chẽ, chưa được thông thoáng. Các công ty đầu tư ra được vì thế phải tự tìm cách tài trợ chi phí này bởi lợi thế cạnh tranh riêng có độc nhất của doanh nghiệp chẳng hạn quan hệ với các bên liên quan hoạt động đầu tư này, nhưng những lợi thế này không phải dành cho số đông các doanh nghiệp. Do đó theo tinh thần từ trên xuống hiện nay là thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam “go global” (tạm dịch là “đi ra thế giới”) thì kỳ vọng sẽ có nhiều chuyển biến trong tư duy quản lý, định hướng và chính sách của nhà nước.
Rõ ràng rằng khi Việt Nam hay một quốc gia nào đó đã xác định tham gia cuộc chơi toàn cầu hoá thì khi đó một cánh cửa đã được mở ra từ quốc gia ra thế giới. Ngoài việc thúc đẩy và định hướng từ trên xuống (chính quyền nhà nước và địa phương) là rất quan trọng thì từ dưới lên các doanh nghiệp cũng có những động lực tự nhiên mong muốn đi ra nước ngoài. Khi có cơ hội (cánh cửa đã mở ra) thì chỉ cần thúc đẩy từ trên xuống vừa đủ “tốt”, các doanh nhân luôn có lý do để tự tìm kiếm đường đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Câu chuyện doanh nghiệp nội địa đi ra thế giới đã được phân tích khá kỹ càng và đầy đủ trong cuốn sách Tỉnh thành Trung Quốc đi ra thế giới của tác giả Wiebke Antonia Rabe với bối cảnh được phân tích là một quốc gia đang nổi lên rất mạnh mẽ hiện nay. Trung Quốc, quốc gia mà đang được nước Mỹ coi là đối thủ hàng đầu, và thực tế trong chỉ khoảng hai thập kỷ gần đây nước này từ không đáng kể đã trở thành người chơi chính trên trường quốc tế về đầu tư ra nước ngoài. Đi vào một số ví dụ về doanh nghiệp Việt Nam sau đây có thể giúp bạn đọc cuốn sách Tỉnh thành Trung Quốc đi ra thế giới có được sự liên hệ thêm với thực tế đang diễn ra tại Việt Nam. Nếu chưa đọc cuốn sách trên nhưng quan tâm về các vấn đề tương tự, các bạn vẫn có thể đọc bài viết này và nếu được hãy tìm đọc sách tham khảo thêm sau đó.
Mục tiêu bài viết này muốn đi sâu, mạn đàm rõ hơn thông qua phân tích một số tình huống điển hình thực tế ở Việt Nam về một trong các nguyên nhân quan trọng mà doanh nghiệp nội địa lại muốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đó là: thị trường nội địa cạnh tranh gay gắt và mở rộng thị trường mới thông qua đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một con đường bắt buộc.
Doanh nghiệp Trung Quốc và doanh nghiệp Việt Nam: Những tình huống điển hình thực tế
Ở một số nơi khi mà sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào con đường mòn, tức hiểu nôm na là trong quá khứ có nhiều yếu tố có tính lịch sử hình thành nên các ngành nghề phát triển mạnh của địa phương hiện nay ví dụ như các tỉnh ven biển đã có phát triển đánh bắt nuôi trồng thuỷ hải sản từ xưa hay các làng nghề phát triển tự nhiên do sản vật địa phương sẵn có như làm thủ công mỹ nghệ điêu khắc đá do địa phương có nguồn đá tốt phù hợp,… Theo đó, trong các giai đoạn phát triển mới của địa phương có những sự củng cố thêm, làm ngành nghề nào đó đặc biệt phát triển thì cũng sẽ tới lúc ngành kinh doanh phát triển đến tình trạng bão hoà. Đặc trưng bởi việc các sản phẩm từ các nhà cung cấp, kinh doanh tại địa bàn này không có nhiều sự khác biệt nữa, lợi thế riêng có không rõ ràng; nguồn cung vượt quá nguồn cầu trong nước (tức có bán ra các địa phương khác trong nước rồi); các sản phẩm giá rẻ xuất hiện khiến các nhà kinh doanh liên tục phải giảm giá để bán được hàng dẫn đến không còn ai có lợi nhuận trong ngành, thậm chí đã lỗ.
Ở các địa phương khác, nơi phát triển các ngành nghề kinh doanh mới, không có tính lịch sử thì vấn đề ngành bão hoà vẫn sẽ xảy ra do tính chu kỳ cố hữu của một loại sản phẩm hay ngành nghề. Giống như câu chuyện iPhone của Apple đã tạo ra cuộc cách mạng trong mảng điện thoại di động, mới có từ năm 2007, và theo làn sóng nhu cầu mua iPhone cũng như các điện thoại thông minh mới (ví dụ Samsung) trên toàn cầu, các nhà phân phối như Thế Giới Di Động tại Việt Nam đã tận hưởng một thời kỳ phát triển mạnh mẽ kéo dài mười mấy năm. Dù vậy ngành đã có thể coi là bão hoà, vì một logic đơn giản bạn có thể hiểu là khi mỗi người trên thế giới giả sử đều đã có 1 chiếc iPhone thì dù vẫn có một tỷ lệ họ có thể đổi máy mới khi một phiên bản đời mới xuất hiện nhưng một phần không nhỏ sẽ tiếp tục sử dụng máy cũ của mình trong nhiều năm. Do đó nhu cầu nhìn chung đã tới hạn và các nhà sản xuất không thể tăng công suất sản xuất và bán hàng của mình thêm nữa. Các nhà sản xuất thường dựa trên lợi thế kinh tế nhờ quy mô tức hiểu nôm rằng họ càng mở rộng sản xuất và bán hàng thì càng lãi nhiều, nhưng rõ ràng rằng sẽ tới lúc các khách hàng đều đã có hoặc đã sử dụng sản phẩm và người bán hàng sẽ không thể mở rộng tập khách hàng mới thêm nữa. Khi đó ngành sẽ có thể coi là bão hoà cho đến khi có một cuộc cách mạng sản phẩm mới nhưng điều đó rất hiếm khi xảy ra, ví dụ như cuộc cách mạng về pin loại mới vượt trội hoàn toàn, tái cấu trúc toàn diện ngành xe điện hay một cuộc cách mạng về cấu trúc chip mới vượt trội hoàn toàn. Cuộc cách mạng này sẽ phải không khác gì quả bom tấn iPhone của Apple ngày xưa đã tác động tới ông vua Nokia khi đó. Về Thế Giới Di Động, trùng hợp là, công ty đã đầu tư sang Indonesia năm 2022 vào liên doanh EraBlue bán thiết bị di động, đồ gia dụng giống mô hình Thế Giới Di Động, Điện Máy Xanh tại Việt Nam. Họ có tham vọng trở thành nhà bán lẻ điện máy hàng đầu tại xứ sở vạn đảo này. Cái mà Thế Giới Di Động xuất khẩu thực tế là mô hình dịch vụ phân phối đầy đủ của mình từ trưng bày và bán thiết bị tại cửa hàng mặt đường dễ tiếp cận, sau đó giao hàng, lắp đặt, bảo hành trọn gói, thứ mà ở Indonesia lại chưa phổ biến. Một ví dụ đầu tiên cho việc doanh nghiệp nội địa tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường qua hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Thêm một ví dụ về giới hạn của thị trường, ngành bão hoà là một sản phẩm quen thuộc: Viettel bán sim điện thoại. Tới khi mà mỗi người dân Việt Nam đã có tới 2 sim chính chủ thì cơ bản nhu cầu mua sim mới hay đổi sim là không cao (do Việt Nam đã yêu cầu chặt chẽ về xử lý sim rác và giới hạn đăng ký sở hữu chính chủ nhiều năm nay, không như ngày xưa một người có thể mua rất nhiều sim rác), do đó sẽ khó bán sim mới và cung cấp dịch vụ đi kèm tại Việt Nam. Thực tế, Viettel từ lâu đã đầu tư mạnh, và cũng là một doanh nghiệp Việt Nam tiên phong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, tới nay là sang 13 quốc gia có thể kể tên như Lào, Campuchia, Myanmar, Mozambique, Haiti…
Câu chuyện tương tự với xe ô tô điện (EV) của Trung Quốc. Công suất sản xuất ô tô điện Trung Quốc đã vượt nhu cầu nội địa từ lâu, hiện nay lại phải đối diện với tình trạng giảm phát trong nước làm sụt giảm mạnh tiêu dùng nội địa. Con đường đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị trường hoặc xuất khẩu với các doanh nghiệp sản xuất ô tô điện Trung Quốc là bắt buộc phải đi. Thực tế từ năm 2023, Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản, trở thành nước xuất khẩu ôtô lớn nhất thế giới. Các nhà sản xuất ôtô Trung Quốc cũng chiếm hơn một nửa số xe điện (EV) được sản xuất trên thế giới. Đã có những dự báo trước đó là xe điện Trung Quốc sẽ sớm tràn ngập toàn cầu. Với quy mô sản xuất rất lớn cùng chuyên môn ngày càng đi lên, các nhà sản xuất xe điện Trung Quốc có đủ khả năng để làm việc đó. Con đường mở rộng thị trường cần đến việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài do nhiều quy định về xuất xứ, tỷ lệ nội địa hoá, ràng buộc chuyển giao/nhận chuyển giao công nghệ, các chỉ tiêu về an sinh xã hội như giải quyết việc làm địa phương, đóng thuế… cũng như cân nhắc góc độ chi phí của việc đầu tư tại nước ngoài hay xuất khẩu thuận lợi hơn. Trung Quốc đã có nhiều đầu tư vào mảng ô tô tại EU ví dụ thương vụ rất thành công là Geely mua lại Volvo nhiều năm về trước. Tính đến tháng 6/2025, Trung Quốc hiện ghi nhận khoảng 170 hãng xe thuần điện. Dù có nhiều công ty đóng cửa, ngày càng có nhiều công ty mới hay liên doanh được thành lập. Năm 2023, EU đã từng là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc khi xuất khẩu xe điện vào EU chiếm 40% lượng xuất khẩu xe điện Trung Quốc. Tuy nhiên, do lo ngại Mỹ và EU thực hiện nhiều biện pháp hạn chế xe điện Trung Quốc vào thị trường (ví dụ EU đã đánh thuế xe điện xuất xứ Trung Quốc lên đến 35%), Trung Quốc đang phải tìm đủ các con đường khác nhau để xuất khẩu ô tô sang các thị trường mới, như Ấn Độ, Đông Nam Á (Thái Lan, Indonesia, Việt Nam),… Theo đó Trung Quốc cũng thực hiện nhiều khoản đầu tư ở các nước sở tại nhằm thúc đẩy mở rộng thị trường tiêu thụ.
> Tìm hiểu thêm: Tỉnh thành Trung Quốc đi ra thế giới – Wiebe Antonia Rabe
Ví dụ trên của Trung Quốc là một trong các trường hợp có thể quan sát được của việc nguồn cung trong nước vượt quá nhu cầu rất nhiều. Thêm vào đó, khi cung vượt cầu và thị trường phát triển tới ngưỡng bão hoà, các nhà bán hàng trong nước không có nhiều lợi thế bán hàng hơn so với đối thủ cùng ngành vì thế cạnh tranh trong ngành là đặc biệt gay gắt, trừ trường hợp độc quyền hoặc độc quyền nhóm nhỏ như trong mảng công nghệ tiêu dùng Trung Quốc với Didi trong mảng gọi xe công nghệ, Alibaba trong mảng thương mại điện tử, Tencent mảng công nghiệp trò chơi điện tử…
Vì vậy các nguyên nhân này đều thúc đẩy các doanh nghiệp nội địa tìm đường đi ra nước ngoài để mở rộng thị trường.
Một ví dụ thêm ở Việt Nam, có thể nhắc tới cái tên Thiên Long. Trong một bài báo gần đây thông tin rằng ngày 15/08/2025 vừa qua Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Tập đoàn Thiên Long thông qua việc đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn 2,8 triệu USD (gần 74 tỷ đồng) để thành lập pháp nhân nhập khẩu và kinh doanh văn phòng phẩm tại Philippines, với tên dự kiến là FlexOffice Philippines Inc. Thiên Long là thương hiệu gắn liền với những cây bút bi mà chúng ta có thể đều đã từng sử dụng qua.
Động thái này nằm trong chiến lược mở rộng ra Đông Nam Á mà lãnh đạo Thiên Long nhiều lần công bố với cổ đông. Hiện Thiên Long không chỉ tập trung Philippines mà còn tăng tốc tại Indonesia, duy trì thị phần ở Myanmar và khảo sát mở rộng sang các thị trường khác ở châu Âu, Nhật, Trung Đông, Nam Mỹ và châu Phi. Theo số liệu tài chính công ty thì năm 2024 doanh thu nội địa của tập đoàn tăng 9% nhưng doanh thu tại thị trường Đông Nam Á tăng tới 25%. Số liệu này cũng đã được làm sáng tỏ phần nào dựa trên các phân tích nguyên nhân động lực đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp nội địa Việt Nam và Trung Quốc ở trên. Doanh thu trong nước của Thiên Long vẫn có sự tăng trưởng nhưng không cao có thể do nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm sự gia tăng cạnh tranh trong nội địa, nhưng rõ ràng doanh thu tại các thị trường Đông Nam Á khi công ty đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đang thể hiện tiềm năng lớn thông qua con số tăng trưởng mạnh mẽ 25%, vượt xa tăng trưởng nội địa. Bài báo cũng nói, các năm gần đây xuất khẩu của TLG đều tăng trên 20%, trong đó thương hiệu FlexOffice đã trở thành “top-of-mind” tại Philippines.
Tổng kết
Tổng kết lại, lý do tại sao doanh nghiệp Việt Nam “go global”, thì một trong những nguyên nhân quan trọng mà có thể phân tích qua các quan sát ở cả Trung Quốc và Việt Nam, là thị trường nội địa cạnh tranh gay gắt và mở rộng thị trường mới thông qua đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một con đường bắt buộc. Nội dung bài viết sẽ dừng tại đây, phân tích Việt Nam và nhìn Trung Quốc sẽ còn có nhiều những sự soi chiếu thực tiễn của hai nước nhằm gợi mở các ý tưởng mới hoặc liên kết những câu chuyện, làm rõ nhiều vấn đề có giá trị nghiên cứu thêm.
Nguyễn Nghĩa Long
Xem thêm: Bản lưu buổi livestream “Nghiên cứu kinh tế Trung Quốc và ứng dụng thực tiễn” với sự góp mặt của dịch giả Nguyễn Nghĩa Long
