Mặc dù nói điều sai lầm thường có thể khiến bạn bị giết trong các nền văn minh cổ đại, nhưng lịch sử cho thấy lý tưởng về tự do ngôn luận đã có gốc rễ sâu xa.
Các ý quan trọng trong bài:
- Trong cuốn sách mới của mình, Tự do ngôn luận: Lịch sử từ Socrates đến Phương tiện truyền thông mạng xã hội (Free Speech: A History from Socrates to Social Media), luật sư & người ủng hộ nhân quyền Jacob Mchangama theo dõi sự tiến triển của các luật lệ và chuẩn mực ngôn luận, sử dụng lịch sử để khám phá nguyên nhân và hậu quả của hạn chế ngôn luận.
- Cuốn sách này trích dẫn tổng quan một số lặp lại sớm nhất của luật ngôn luận.
- Các phiên bản ban đầu của tự do ngôn luận gặp phải những vấn đề tương tự như các phiên bản hiện đại, cụ thể là ứng dụng trong thực tế thường không đạt được mức lý tưởng.
Trích từ Tự do ngôn luận: Lịch sử từ Socrates đến Truyền thông xã hội của Jacob Mchangama. Bản quyền © 2022. Sách có sẵn tại Basic Books, một chi nhánh của Hachette Book Group, Inc.
Trong khi tự do ngôn luận có nguồn gốc sâu xa và cổ xưa, thì theo phần lớn lịch sử được ghi lại, việc nói ra sự thật trước người cầm quyền là điều không nên làm và thường rất nguy hiểm. Đánh giá từ các bộ luật và ghi chép còn sót lại, các nền văn minh vĩ đại thời cổ đại đã bảo vệ quyền lực và uy quyền của những người cai trị khỏi ngôn luận của thần dân, chứ không phải ngược lại. Luật Hittite, được áp dụng ở Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, vào khoảng năm 1650-1500 TCN, quy định rằng “nếu bất kỳ ai chối bỏ phán quyết của nhà vua, thì nhà của ngươi sẽ trở thành một đống đổ nát”. Theo Kinh thánh Do Thái, hình phạt cho việc nguyền rủa “Chúa và nhà vua” là ném đá. Những luật này phản ánh hệ thống thứ bậc chặt chẽ đã xây đắp nên các nền văn minh lớn cổ đại; nhiều nền văn minh trong số đó được dẫn đầu bởi những người được cho là cai trị theo quyền thiêng liêng hoặc thậm chí – như ở Ai Cập – chính người cai trị cũng là thần thánh. Chỉ dạy của Ptah-Hotep, một bộ sưu tập châm ngôn của người Ai Cập từ khoảng năm 2350 TCN, khuyên răn rằng không nên nói chuyện với “một người vĩ đại hơn ngươi. Hãy nói khi ngài mời và ngươi sẽ được toại nguyện”. Triết gia Trung Quốc cổ đại Khổng Tử (551-479 TCN) cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phục tùng bề trên và những người cai trị, khẳng định rằng “chưa từng có chuyện những người quy phục triều đình lại muốn nổi loạn”. Bạn sẽ nghĩ rằng những lời của Khổng Tử như rót mật vào tai vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng, khi ông lên ngôi ba thế kỷ sau đó. Nhưng năm 213 TCN, Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh đốt và cấm các tài liệu Nho giáo và các ghi chép lịch sử trước thời ông trị vì. Theo lời của chính hoàng đế, như trích dẫn của nhà sử học cổ đại Tư Mã Thiên: “Ta đã thu thập các tác phẩm của thiên hạ và loại bỏ tất cả những thứ vô dụng”. Tướng quốc của ông giải thích thêm rằng việc nghiên cứu văn thư và ghi chép trong quá khứ khiến bách tính rơi vào “rối loạn” và khiến họ “chối bỏ luật pháp và giáo lý”. Họ coi bất đồng là cao quý, và khuyến khích tất cả bề tôi bịa đặt những lời vu khống”. Theo Tư Mã Thiên, hơn 460 học giả đã bị “chôn” vì vi phạm lệnh cấm. (Cho dù họ được chôn sống hay chết vẫn là một vấn đề tranh cãi). Đây có thể là vụ đốt sách hàng loạt có tổ chức đầu tiên được ghi lại trong lịch sử. Nhưng nó cũng không phải là cuối cùng.
Đối với nô lệ và phụ nữ, ngôn luận đặc biệt bị hạn chế. Bộ luật Ur-Nammu của người Sumer từ khoảng năm 2050 TCN – bộ luật lâu đời nhất còn tồn tại trên thế giới – quy định rằng “nếu một nữ nô lệ báng bổ ai đó hành xử với thẩm quyền tình nhân mình, họ sẽ súc miệng cô ấy bằng một sila (0,85 l) muối”. Bộ luật Hammurabi của người Babylon từ năm 1792 đến năm 1750 TCN cho phép các chủ nô cắt tai nô lệ nếu họ thốt ra những từ “ngài không phải là chủ nhân của tôi”. Phụ nữ trời sinh phóng túng cũng bị trừng phạt do vượt quá ranh giới của họ. Luật Trung Assyria từ khoảng năm 1076 TCN đã lên án những phụ nữ tráo trợn “ăn nói thô tục hoặc hay nói năng hèn mọn”. Các luật ngôn luận khác nhằm bảo vệ danh dự của những người phụ nữ đáng tôn trọng. Theo Bộ luật Hammurabi, hình phạt cho tội phỉ báng phụ nữ đã có gia đình hoặc nữ tu sĩ là đánh đòn và cạo đầu công khai.
Tuy nhiên, trong số những mệnh lệnh khắc nghiệt của thế giới cổ đại, chúng ta vẫn có thể tìm ra những hạt nhân của khoan dung tôn giáo. Sau khi thành lập Đế chế Ba Tư Achaemenid vào thế kỷ thứ sáu TCN, Cyrus Đại đế đã ban hành luật khắc trên hình trụ bằng đất sét, tuyên ngôn về quyền tự do thờ cúng cho các thần dân đa sắc tộc trong đế chế rộng lớn của mình. Theo Kinh thánh Do Thái, ông cũng giải cứu người Do Thái khỏi cuộc lưu đày ở Babylon và hạ lệnh xây dựng lại Đền thờ bị ô uế của họ ở Jerusalem. Liên Hợp Quốc đã gọi Trụ Cyrus là “một tuyên ngôn cổ xưa về nhân quyền”. Nhưng ngay cả khi Cyrus và những người kế vị của ông thúc đẩy lòng khoan dung tôn giáo, họ cũng trừng phạt sự bất tuân bằng cách đốt đền thờ, cắt mũi và tai, và chôn sâu người trong sa mạc trước khi bỏ mặc họ chết dưới ánh mặt trời chói chang. Thật quá nhiều sự tình về nhân quyền.
Khoảng ba thế kỷ sau, hoàng đế Mauryan Ashoka đã hạ lệnh ban hành bản tuyên ngôn về khoan dung tôn giáo khắc trên những tảng đá và cột trụ dựng khắp tiểu lục địa Ấn Độ. Ashoka tuyên bố rằng “tất cả tôn giáo nên cư trú ở khắp mọi nơi”. Tuy nhiên, ngay cả điều này cũng không nên bị hiểu sai thành một sự tán thành của biểu hiện tôn giáo. Những bản khắc tinh xảo này khuyến khích “kiềm chế trong lời nói, nghĩa là không ca ngợi tôn giáo của mình hoặc lên án tôn giáo của người khác”. Chúng tôi cũng tìm thấy những dòng của thứ (có lẽ quá rộng rãi khi) được gọi là “nền dân chủ đầu tiên”. Trong số những người Assyria, Babylon, Hittite và Phoenicia, có các hội đồng, ủy hội và tòa án cho phép các mức độ đại diện và tranh luận chính trị khác nhau. Theo Aristotle, thành phố Phoenicia-bang Carthage đã có một hội đồng nổi tiếng, được tham vấn quan điểm bất cứ khi nào Ủy hội Trưởng Lão cầm quyền không thể đạt được thỏa thuận và khi “bất kỳ ai muốn đều có thể phản đối đề xuất được đưa ra, một quyền không tồn tại theo hiến pháp của Sparta và Crete”. Tuy nhiên, điều này vẫn còn xa với ý tưởng và thực tiễn của quyền tự do ngôn luận và bình đẳng đặc trưng cho thành bang Hy Lạp, nơi Aristotle thực hiện phần lớn viết lách và tư duy.
Ai muốn nói? Tự do ngôn luận tại Athens cổ đại
Mãi cho đến thế kỷ 5 TCN, màn sương lịch sử cổ đại mới tiết lộ một thành bang, trong đó các giá trị dân chủ và tự do ngôn luận đã được chính thức hóa và phát ngôn rõ ràng như một niềm hãnh diện và phẩm hạnh.
Một dạng thức dân chủ Athens kéo dài từ khoảng năm 507 đến năm 322 TCN, với nhiều gián đoạn đẫm máu, nhưng qua các hiện thân khác nhau của thành bang cổ đại này, nhà nước dân chủ và tự do ngôn luận có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Athens là một nền dân chủ trực tiếp, trong đó các công dân tự đề xuất, tranh luận và bỏ phiếu cho các luật lệ ảnh hưởng lên họ. Trong bài diễn văn truy điệu nổi tiếng của mình để vinh danh những người đã ngã xuống trong cuộc chiến Peloponnisos chống lại Sparta, Pericles – một chính khách lỗi lạc của Athens – đã đưa ra định nghĩa về hệ thống chính trị của thành phố mà vẫn đóng vai trò là nền tảng cho các chính phủ dân chủ ngày nay: “Hiến pháp của chúng ta được gọi là nền dân chủ bởi vì quyền lực nằm trong tay không phải của thiểu số mà là của toàn thần dân. Khi vấn đề là giải quyết các tranh chấp cá nhân, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”.
Tuy nhiên, theo các tiêu chuẩn hiện đại, cam kết bình đẳng của người Athens mắc phải những thiếu sót nghiêm trọng. Phụ nữ, người ngoại quốc và nô lệ chiếm phần lớn dân số thành phố nhưng rõ rang họ bị loại khỏi quá trình dân chủ. Mặc dù vậy, bản chất bình đẳng của nền dân chủ Athens mang tính triệt để vào thời điểm đó.
Đối với người Athens, nhà nước không tồn tại như một thực thể tách biệt với người dân. Do đó, tự do ngôn luận là một phần cố hữu của hệ thống chính trị Athen và văn hóa công dân, chứ không phải là quyền con người của cá nhân bảo vệ một người chống lại nhà nước, giống như chúng ta có xu hướng hiểu về nó trong các nền dân chủ tự do hiện đại. Người Athens không có khái niệm về “quyền” cá nhân mà thay vào đó là một trong những nghĩa vụ, đặc ân và đặc quyền của công dân.
Theo thời gian, Athens đã trở thành thành bang thống trị của Hy Lạp và là lực lượng hùng mạnh nhất của Hy Lạp, đẩy lùi các cuộc xâm lược của Đế chế Ba Tư trong giai đoạn từ 490 đến 479 TCN. Nhà sử học Hy Lạp cổ đại Herodotus lập luận rằng khi sống dưới chế độ chuyên chế, người Athens là một dân tộc tầm thường. Họ chỉ đạt đến tầm cao vĩ đại khi họ được trao quyền bình đẳng về ngôn luận. Pericles đã nhấn mạnh trong diễn thuyết của mình rằng diễn ngôn phổ biến tự do là nguồn sức mạnh chính của người Athen: “Người Athen chúng tôi… đưa ra các quyết định của mình về chính sách hoặc đưa ra các cuộc thảo luận phù hợp: bởi… điều tồi tệ nhất là lao vào hành động trước khi các hậu quả được thảo luận thích đáng”. Ít nhất đó là lý tưởng. Nhưng như chúng ta sẽ thấy, thực tế có cách nghiền nát những lý tưởng.
Nguồn: Big Think – Jacob Mchangama
Dịch: Hải Anh