Home Chưa phân loại LỊCH SỬ NHẠC JAZZ (PHẦN 1): TỪ BLUES ĐẾN SWING VÀ THỜI KÌ BIG BAND

LỊCH SỬ NHẠC JAZZ (PHẦN 1): TỪ BLUES ĐẾN SWING VÀ THỜI KÌ BIG BAND

Book Hunter

08/08/2019

Là một thể loại kén người nghe, jazz gắn liền với sự tinh tế và phức tạp. Nhịp điệu lắt léo của jazz vốn khó nắm bắt với cả những tay chơi nhạc kì cựu. Bài viết hi vọng đem đến cho bạn một cái nhìn sơ lược về thể loại âm nhạc có ảnh hưởng nhất thế kỉ 20.

Giới thiệu nhạc Jazz

Jazz là thể loại nhạc Mỹ đầu tiên có tầm ảnh hướng thế giới. Nhiều học giả nhất trí rằng những ảnh hưởng thời kì đầu của Jazz đến từ giai đoạn sau cuộc Nội chiến Hoa Kỳ và thời kì giải phóng, lúc mà những nô lệ cũ giờ đã được trả tự do để dịch chuyển, truyền bá di sản văn hóa châu Phi. Họ kiếm sống bằng cách biểu diễn tại các khách sạn, nhà hàng, câu lạc bộ, sàn nhảy và nhà thổ.

Jazz là sự kết hợp của:

– Nhạc tế thần và bài ca lao động của những nô lệ trên đồng ruộng

– Nhịp phách lỡ (syncopation) của ragtime

– Những đoàn diễu binh và tiếng kèn brass

– Chất nhạc thê thảm, sầu bi của nhạc blues

Bộ ba: Fiddle, Banjo và Trống là những nhạc cụ cơ bản của Jazz. Đến những năm 1890, danh sách này bao gồm thêm Upright bass hoặc Cello, và kèn Cornet. Đến những năm đầu thế kỉ 20, đàn Fiddle biến mất, thay vào đó là kèn Trombone và Clarinet, đôi lúc đi với kèn Tuba “Brass bass”. Điều này được lí giải do các nhạc cụ cũ được bán rộng rãi ở các tiệm cầm đồ thời kì hậu Nội chiến.

Tương tự cây vĩ cầm. Nghệ sĩ chơi nhạc cổ điển phương Tây dùng Fiddle như một cách gọi gắn liền với violin, “người bạn thân” của fiddle. Tuy nhiên ở Mĩ, thường Fiddle có nghĩa là violin được sử dụng trong nhạc truyền thống Ireland-Scotland-Pháp và hậu duệ của nhạc Mỹ như Appalachian, bluegrass, Cajun, etc.

Jazz ra đời khoảng năm 1895 ở New Orleans. Jazz bao gồm Rag time, âm nhạc của band diễu binh (brass marching bands), và blues. Jazz khác biệt ở phong cách ứng tấu của nhiều nhạc cụ cùng lúc. Jazz thoát ra khỏi truyền thống âm nhạc phương Tây, khi mà các nghệ sĩ đọc sheet và cố gắng tái tạo lại chính xác từng nốt nhạc. Ca khúc jazz thường mang tính chất tham khảo, để nghệ sĩ tự ứng tấu. Nhiều người không thể đọc được nốt nhạc nhưng vẫn có thể làm đám đông điên đảo với những giai điệu ngẫu hứng, niềm hân hoan mà họ đem lại.

Một bài nhạc rất kinh điển của brass band là “When the saints go marching in”.  Ở New Orleans, các đoàn diễu binh lớn thường xuất phát vào dịp đám tang hoặc lễ hội Mardi Gras.

Sơ lược các giai đoạn của nhạc Jazz

Jazz history

Nhạc Blues (cuối thế kỉ 19 tới nay)    

Blues Source: fistfuloftalent .com
Blues
Source: fistfuloftalent .com

Xuất phát từ thế kỉ 19 tại miền Nam, từ bài hát của những người nô lệ và sau đó là những người lĩnh canh khi họ lao động dưới ánh mặt trời gay gắt hoặc ca hát nhảy múa trong những buổi lễ cầu thần. Khi những người Mĩ-Phi học chơi nhạc cụ châu Âu, guitar trở nên phổ biến để cất lên tiếng lòng của họ và kéo theo đó là sự phát triển của phong cách blues. Vòng hợp âm của blues là vòng 12 ô nhịp, cùng với nốt Blue. Nốt blue là nốt được hát hoặc chơi ở cao độ thấp hơn thang âm trưởng, đem lại cho nốt nhạc cảm giác thống khổ, sầu đời.

Trong khi blues phát triển song song với nhạc jazz vào cuối thế kỉ 19, đầu 20, nghệ sĩ nhạc jazz mang rất nhiều hơi hướm nhạc blues vào trong jazz, nhất là vòng hợp âm kéo dài 12 ô nhịp. Khi jazz trở nên quá trừu tượng, các nghệ sĩ mượn đến nhạc blues.

Nghệ sĩ tiêu biểu:

– W.C Handy: Được xem như cha đẻ của nhạc Blues, là người thúc đầu mainstreaming nhạc blue

– Huddie “Lead Belly” Leadbetter: Sáng tác hàng tá nhạc blues bất hủ được cover. Người ta truyền tụng rằng ông đã bị bắn vào bụng bởi một cây sung ngắn và may mắn sống sót, từ đó có nickname là “Lead Belly”.

– Bessie Smith: Ca sĩ có phong cách đã để lại dấu ấn sâu đậm cho thế hệ jazz vocalist về sau.

Tác phẩm nổi bật:

– “Where Did You Sleep Last Night” bởi Lead Belly

– “St. Louis Blues” do Bessie Smith hát

Ragtime (1895—1918)

Ragtime
Ragtime

Khởi nguồn từ pianists da đen chơi nhạc trong các hộp đêm và dance club, đây là một thể loại nhạc dành cho piano phát. Điểm nổi bật của ragtime là nhịp chỏi (syncope), nhấn ở phách 2 và/hoặc phách 4.

Nghệ sĩ tiêu biểu:

– Scott Joplin, ông hoàng nhạc Ragtime

Tác phẩm nổi bật:

– “Maple Leaf Rag”

– “The Entertainer”

New Orleans Jazz (Dixieland Jazz) (1900-1920)

new orleans jazz

New Orleans jazz khởi nguồn từ các ban nhạc diễu hành ở New Orleans. Nhạc cụ chủ lực của thế loại này là đàn cornet. Ban nhạc kết hợp giữa điệu ragtime (lúc này đã là một trào lưu) với kĩ thuật đẩy dây của nhạc blues.

Đàn cornet

Đàn cornet

Ban nhạc New Orleans jazz thường ít người, bao gồm dàn trước có đàn cornet/trumpet, clarinet, trombone, và dàn nhạc đệm bao gồm ít nhất 2 trong các nhạc cụ sau: banjo, bass dây, trống hoặc piano. Ứng tấu mang tính tập thể, có thể nghe rõ khi một nhạc cụ chủ đạo solo một câu ngẫu hứng, được các nhạc cụ khác “góp thêm” vào. Lúc này nghệ sĩ solo jazz chưa có cơ hội “nổi lên” ở vị trí trung tâm.

New Orleans Jazz thịnh hành là nhờ vào sự xuất hiện của máy hát đĩa than. Nhiều nghệ sĩ New Orleans Jazz rời new Orleans để mở shop bán máy hát đĩa ở Chicago và New York vào thời kì di cư ồ ạt.

Một địa danh gắn liền với giai đoạn này là Khu phố đèn đỏ nổi tiếng Storyville . Pianist Jelly Roll Morton là một trong những tượng đài nhạc jazz, khởi nghiệp bằng việc chơi nhạc ở các quán rượu và nhà thổ ở Storyville.

Nghệ sĩ tiêu biểu:

– Byddy Bolden là người phát minh ra điệu nhạc Big Four, dựa trên nhịp nhạc hành quân. Ông đã đặt nền móng cho jazz hiện tại và tạo không gian cho ngẫu hứng cá nhân trong nhạc jazz.

Source: Wikipedia
Source: Wikipedia

Mô phỏng điệu Big Four chơi trên dàn trống:

– Joe “King” Oliver: trưởng ban nhạc, chơi cornet; đi tiên phong kĩ thuật mutes (tắt tiếng) – ông đặt nón trước kèn trumpet để bịt âm thanh; là người dẫn dắt và thầy giáo dạy Louis Amstrong.

– Jellly Roll Morton: Xuất thân sáng tác nhạc ragtime, ông là nhà soạn nhạc jazz đầu tiên. Ông đã nới lỏng nhịp lỡ ở ragtime để biến thể thành điệu “swing” trong nhạc jazz.

– Dixiland Jazz Band: Band gồm toàn nghệ sĩ da trắng, là band nhạc đầu tiên thu âm jazz, giúp quảng bá jazz trong cộng đồng người Mĩ da trắng.

Tác phẩm nổi bật:

– “Dipper Mouth Blues” bởi Joe “King” Oliver featuring Louis Armstrong

– “King Porter Stomp” bởi Jelly Roll Morton

– “Wolverine Blues” bởi Jelly Roll Morton

Swing và thời kì Big Band (1930-1945)

Cho tới những năm 30, nhạc jazz được hưởng ứng chủ yếu bởi một bộ phận văn hóa riêng biệt của Mĩ. Mối liên hệ mật thiết giữa nhạc jazz với cuộc sống nhọc nhằn và văn hóa Mĩ – Phi khiến nó trở nên khó “tiêu hóa” đổi với đa phần người Mĩ da trắng. Thời kì Big Band đã làm thay đổi điều này. Thời kì Đại Suy Thoái đã khiến cho nhiều band nhạc jazz mất việc, các nghệ sĩ nhạc jazz đầy rẫy và trở nên rẻ bèo. Vì thế, một vài đầu tàu của nhóm nhạc jazz đã gầy dựng nên những dàn nhạc lớn.

Nhạc jazz lúc này không còn nhiều nhịp lỡ nữa, mà chuyển sang thể loại thoải mái, mượt mà hơn, còn gọi là Swing. Swing có gốc là nhạc dance, nhiều phong cách dance được tạo cảm hứng bởi nhạc Swing như Lindy Hop và Jitterbug. Ngoài jazz, Big Bands còn chơi nhạc theo chuẩn Mĩ, đem tới cho họ chất jazz trong quá trình biểu diễn.

Sau thế chiến thứ hai, khi kinh tế tăng trưởng trở lại, duy trì những dàn nhạc lớn trở nên đắt đỏ, và Big Bands cùng với nhạc Swing cũng suy thoái từ đó.

Nghệ sĩ tiêu biểu:

– Fletcher Henderson: Có công tạo ra công thức của nhạc Swing, lập nên một trong những band nhạc Big Bands đầu tiên. Cùng với Duke Ellington, ông được xem là một trong những nhà soạn nhạc jazz vĩ đại nhất mọi thời đại.

– Benny Goodman: Ông hoàng nhạc Swing, một trong những nghệ sĩ kèn clarinet vĩ đại nhất mọi thời đại, là nghệ sĩ nhạc jazz đầu tiên chơi ở Carnegie Hall. Là người da trắng, Goodman góp phần phổ biến nhạc jazz cho người Mĩ da trắng. Ông là một trong những trưởng band nhạc đầu tiên dẫn dắt một dàn nhạc “hoành tráng”.

– Count Basie: nghệ sĩ piano và trưởng ban nhạc, có phong cách chơi nhạc từ tốn hơn Ellington

– Duke Ellington: Vẫn tiếp tục là một giọng ca đầy sức ảnh hưởng trong thời kì Big Band.

– Cab Calloway: Trưởng band nhạc và ca sĩ, thường mặc zoot suit (loại đồ vest nam chiết eo cao, ống quần rộng, cổ tay áo bó, quần ống túm đi với áo khoác vạt dài và độn vai rộng) nổi tiếng với hình thức Jive talk và “hep hep, hi di hi di hos”. Cab Calloway và dàn nhạc của ông là một trong những big bands nổi tiếng nhất ở thời kì Swing.

zoot suit - museum dot state dot il dot us

Tác phẩm nổi bật:

– “One O’Clock Jump” bởi Count Basie

– “It Don’t Mean a Thing” bởi Duke Ellington

– “Sing Sing Sing” bởi Benny Goodman

– “Minnie the Moocher” bởi Cab Calloway (nếu thích hài hước một chút, xem qua: “Reefer Man”)

 ———–

Vũ Ngọc Linh Phương

Nguồn: https://phuongvu.me

Tham khảo:
– https://www.scaruffi.com/history/jazz1.html – Sách “A history of jazz music” của Piero Scaruffi

– https://www.artofmanliness.com/2014/02/27/jazz-appreciation-for-beginners/

– https://atj.8k.com/atjh1.html

– https://www.allthingsstrings.com/How-To/Get-Started-with-Strings/Learn-the-Difference-Between-Violin-and-Fiddle

Phong trào Thực phẩm Địa phương như một Chất Xúc tác cho Cộng đồng

Trong vài thập kỷ qua, phong trào thực phẩm địa phương đã đi từ một phong trào bên lề trở thành một nhân tố chính trong ngành công nghiệp thực phẩm quốc gia. Hầu hết mọi trung tâm đô thị lớn trên cả nước đều có một số chợ nông sản, các chương trình nông nghiệp do cộng đồng hỗ trợ và những cách sáng tạo khác để đưa nông dân và người tiêu dùng đến gần nhau hơn. Phong trào thực phẩm địa phương

Gây quỹ cộng đồng kiểu Comicola hay Comicola cùng sự nhập nhằng trong hình thức hoạt động

1. Gây quỹ cộng đồng tại Việt Nam Có rất nhiều thông tin về gây quỹ cộng đồng trên mạng internet. Mình cũng đã giới thiệu sơ qua trong bài viết ngày 23/2 rồi. Bạn nào chưa rõ có thể đọc lại hoặc tìm hiểu thêm tại đây. Bài này sẽ chỉ nhấn mạnh lại một số đặc điểm của gây quỹ cộng đồng sẽ phục vụ cho các phân tích của người viết: - Về cơ bản gây quỹ cộng đồng là một hình

Book Hunter

27/02/2016

TÌNH YÊU THỰC SỰ LÀ GÌ – VÀ TẠI SAO TÌNH YÊU LẠI QUAN TRỌNG

Xã hội chúng ta có quá nhiều bàn luận về tình yêu, sẽ là tự nhiên khi chúng ta nghĩ rằng cho tới giờ chúng ta hẳn phải biết tình yêu là gì và tại sao nó lại quan trọng. Tình yêu là cảm giác phấn khích của chúng ta trước sự hiện diện của một người mà phần lớn là người có tài năng hoặc thành tựu phi thường - một trí tuệ siêu phàm hoặc một vẻ đẹp choáng ngợp - những người

Oscar Wilde ở Hà Nội: Cộng đồng Văn chương Book Hunter ở Việt Nam

Tôi được tiếp thêm nhiều năng lượng và cảm hứng từ hai người bạn mới quen trong chuyến thăm Hà Nội gần đây. Thảo đã sáng tác và xuất bản một tiểu thuyết lịch sử giả tưởng mang tên Điệu nhạc trần gian vào năm 2004, khi ấy Thảo còn là một cô bé. Hiện cô đã trở thành một nhà văn được công nhận trên toàn quốc với bút danh Hà Thủy Nguyên. Cùng với chồng mình là Lê Duy Nam và nhiều bạn

Minh Hùng

01/10/2019

Chủ nghĩa Ẩn nhẫn hay Chủ nghĩa Khắc kỷ thực sự là gì

Lời của Book Hunter: Trong thời gian gần đây khái niệm khắc kỷ (stoicism) trở nên phổ biến và thu hút một sự chú ý không hề nhỏ của các độc giả. Đa phần tò mò vì khái niệm khắc kỷ nghe có vẻ thú vị. Một yếu tố khác đến từ sự thành công của cuốn sách "Suy tưởng" do hoàng đế La Mã Marcus Aurelius viết được xuất bản ở Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy một sự thiếu sót trong
le-ai

Lê Ái

13/12/2022